Tìm Kinh Sách
 
        Kinh Sách FULL

Kinh Nhật Tụng Cư Sĩ

HỆ PHÁI NAM TÔNG - THERAVĀDA

KINH NHẬT TỤNG CỦA CƯ SĨ
TỲ KHEO TĂNG-ÐỊNH HỢP SOẠN
PL. 2539 - TL. 1995


MỤC LỤC
Phần [01]

I. LỄ BÁI TAM BẢO

- Thỉnh Chư thiên
- Lễ bái Xá lợi Phật

Phần [02]

II. LUẬT CƯ SĨ TÓM TẮT

- Quy y Tam Bảo và Thọ Giới
- Giải Luật Cư Sĩ Ðại cương

Phần [03]

III. CẦU AN VÀ CẦU SIÊU

A) KINH CẦU AN

Thỉnh Pháp sư
Hồi hướng sau khi thính pháp
Kệ Ân đức Phụ Mẫu
Bài tụng đêm Sám hối
Rải Tâm Bác ái
Hồi hướng Phước (Phước căn...)
Kệ Vô thường, Khổ não, Vô ngã
Hạnh Phúc Kinh
Kinh Tam Bảo (YĀNĪDHA)
Tám Kệ Ngôn

Phần [04]

Kinh GIRIMĀNANDA
Kệ Phật cảm thắng Ma vương (Rằm tháng Giêng)
Kệ Phật nhập Niết Bàn
(Rằm tháng Tư)
Kệ tiểu sử Phật Thích Ca

Phần [05]

Kinh Từ bi
Sưu tập các bài kệ

B) KINH CẦU SIÊU

- Các bài Kệ Ðộng Tâm
- Chúc người mới Qui y
- Hồi hướng phước đến Chư Thiên
- Năm điều Quán tưởng
- Kệ tụng khi nhiễu Phật trong lễ Dâng Y

Phần [06]

IV. NGHI THỨC VÀ LỄ GIÁO

- Nghi thức các buổi lễ
- Lễ giáo của Phật tử

-ooOoo-

Lời Tựa

Thời gian gần đây, số kinh sách không đủ đáp ứng nhu cầu của Phật tử, nhất là giới Phật tử tại gia cần có một quyển kinh đọc tụng hằng ngày.

Nhận thấy quyển "Nhựt Hành của người tại gia tu Phật" do Ngài Hòa Thượng HỘ TÔNG, soạn và quyển "Nhật Hành của cư sĩ" do Hòa Thượng PHÁP TRI tái bản tương đối đầy đủ để Phật tử tham gia trong các khóa lễ tụng đọc và thực hành hằng ngày.

Ðáp lại lòng mong mỏi của chư Phật tử, chúng tôi mạn phép đúc kết lại thành một quyển "Kinh Nhật Tụng của cư sĩ".

Kính dâng phần phước pháp thí đến Hòa Thượng Hộ Tông và các vị cao Tăng đã dầy công soạn dịch quyển kinh này.

Ước mong Phật pháp được trường tồn, hưng thạnh đến năm ngàn năm.

Ðại đức TĂNG ÐỊNH
Ủy viên Ban Nghi Lễ Trung ương, GHPGVN
Trụ trì KỲ VIÊN TỰ, Quận 3, Tp Hồ Chí Minh

Source: BuddhaSasana

Chương 11: II. PHẦN LỄ GIÁO

II. PHẦN LỄ GIÁO

KHI NGƯỜI PHẬT TỬ PHỤC SỨC

Nói đến cách phục sức là chúng ta liên tưởng ngay sự ăn mặc hay trang điểm cho hợp thời trang. Ta nhận thấy, mỗi quốc gia đều có bộ quốc phục riêng để dành khi ra đường hoặc vào những dịp hội hè đình đám hay những ngày lễ mang tính cách tôn giáo, cổ truyền của dân tộc. Tuy nhiên, ngoài bộ quốc phục, chúng ta còn thấy rất nhiều loại y phục khác theo thời trang đã lan tràn khắp trong xã hội trên thế giới. Loại y phục này càng ngày càng trở nên thông dụng trong mọi tầng lớp dân chúng, khiến cho những ngày Quốc lễ hay Tôn giáo lễ cũng được mang ra sử dụng, điều này thật tai hại nếu chúng ta không ý thức được hoàn cảnh để tùy nghi phục sức.

Ðối với những nơi phồn hoa đô hội hay những cuộc vui chơi thì sự ăn mặc không nhất thiết, miễn sao thích hợp tánh ý mọi người thì thôi. Còn ở nơi trang nghiêm thờ phū ợng của các tôn giáo thì phải khác. Ðối với Phật giáo, sự phục sức rất quan trọng, vì dù sao bộ y phục gọn gàng và kín đáo cũng là một thể thức để phô bày cá tính và tư cách của mình. Mặt khác, với bộ y phục chỉnh tề tuy nó là lối phục sức cho thân xác bên ngoài, nhưng cũng ảnh hưởng rất nhiều đến tinh thần trừu tượng bên trong.

Tóm lại, người Phật tử muốn cho mục đích tu hành được trong sạch và trang nghiêm cần phải dè dặt mọi hành vi, cử chỉ kể cả lối trang sức cũng nên thận trọng. Cách ăn mặc tốt nhất trong những ngày lễ tôn giáo là nên mặc Quốc phục. Bởi vì sự đua đòi là điều có thể khiến cho ta khó tập trung tư tưởng về với qui luật của tôn giáo cũng như gây trở ngại cho bước đường tu và giải thoát nữa.

KHI NGƯỜI PHẬT TỬ ÐẾN CHÙA

Sự tôn sùng ngôi Tam Bảo là bổn phận thiêng liêng của người Phật tử. Khi chư Phật tử đến chùa thì phải tỏ lòng tôn kính Ðức Phật, Pháp Bảo và chư Tăng tuần tự như sau: trước tiên khi đến chùa ta phải cởi giày dép, khăn, nón rồi vào chánh điện để dâng hương cúng Phật. Sau đó tùy theo công việc riêng tư của mỗi người có thể làm bất cứ công quả nào như quét tước, lau chùi, hay lo những công việc khác như hộ độ chư Tăng hoặc những công việc cần thiết cho nhà chùa. Chúng ta cũng có thể tìm chư Ðại đức Tăng để học đạo; trong suốt thời gian có mặt tại chùa thì tâm hồn người Phật tử phải hướng thượng, lời nói nhã nhặn, đối với chư Tăng cũng như người liên hệ.

Vậy, mỗi người Phật tử khi đến chùa, cần phải học hỏi những gì mà chư Tăng chỉ bảo, hầu tô điểm thêm nghi thức đứng đắn và tạo cho mình được nhiều phước báu trong ngày vị lai.

LỐI XƯNG HÔ CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ ÐỐI VỚI CHƯ TĂNG

Người Phật tử cũng có lối xưng hô đối với chư Tăng, cũng như trong gia đình con cái gọi các bậc sinh thành hay cách xưng hô với người thân kẻ sơ. Trong Phật giáo người Phật tử cũng có các bậc Thầy Tổ mà mình đã thọ quy giới, hay các vị Tăng, ni; trên phương diện xưng hô người Phật tử gọi các Ngài bằng Ðại Ðức, Sư, Thầy, Ni sư v.v... Bởi vì luật lệ đối với Tôn giáo nhất là Phật giáo chúng ta, về tôn ty trật tự như người nhỏ kẻ lớn rất quan trọng và dân chủ thật sự đối với thế hệ hiện tại.

Ví dụ: Một nhà vua khi xuất gia đầu Phật phải đảnh lễ hoặc xem một vị thứ dân xuất gia trước mình dù một giây phút và lối xưng hô cũng phải thưa gởi đối với bậc cao hạ hơn. Cũng vậy, Phật tử khi tiếp xúc với nhà sư thì cũng phải xưng hô với tất cả lòng thành kính. Chẳng hạn như khi đối diện với quý Sư ta chắp tay vái chào xưng hô con và nói những câu như "Thưa Sư" hay "Bạch Sư" con xin đảnh lễ v.v...

Người Phật tử muốn cho tôn giáo mình có một lối lễ giáo thanh nhã thì chúng ta là những người Phật tử cần phải chính mình thực hành theo cách xưng hô trình bày trên, và dạy dỗ cho con cái sớm biết lối xưng hô đối với nhà sư, đó là một việc rất tốt và lợi lạc.

KHI NGƯỜI PHẬT TỬ ÐỐI DIỆN VỚI CHƯ TĂNG TRÊN ÐƯỜNG ÐI HAY NƠI ÐÔ HỘI

Trong Phật Giáo có câu "Trọng Phật thì phải kính Tăng", qua câu nói trên ta thấy rằng sự kính trọng Tăng là một viêc rất đúng đắn. Vì chư Tăng là các bậc đã dứt bỏ tất cả vương vấn của đời thế tục, để đi theo con đường mà trước đây đức Thế Tôn đã đi và tìm ra chân lý. Do đó sự kính trọng chư Tăng đối với người Phật tử cần phải có. Nhưng sự kính trọng chư Tăng bằng cách nào? Ðối diện với các Ngài tại chùa và lúc gặp ở giữa đường hay nơi đô hội, phải vái chào làm sao? Ðó là những vấn đề đôi khi chúng ta không nghĩ đến, song nó cũng không kém phần quan trọng. Trong khi đến chùa, chúng ta phải đảnh lễ như ta cung kính đức Phật, sau đó ta hỏi thăm chư Tăng những việc gì cần thiết, về giáo lý nếu có thắc mắc, ta cũng có thể xin chư Tăng giải đáp những gì mình muốn biết. Nhưng khi gặp chư Tăng ở giữa đường hay những nơi đô hội ta chỉ chắp tay vái chào, thay vì quỳ xuống đảnh lễ. Vì làm như thế ta có thể gây cho những người chung quanh cảm thấy chướng mắt, dù hành động ấy vẫn được xem là sự tôn kính chư Tăng hiệp theo lẽ đạo.

KHI NGƯỜI TÍN ÐỒ CUNG THỈNH CHƯ TĂNG VỀ TƯ GIA

Giới luật đối với chư Tăng là việc tối cần. Vì trong kinh cũng có câu: "Giới luật còn, thì Phật Pháp mới còn". Bởi vậy, chư Tăng triệt để theo dõi từ hành vi, cử chỉ của mình từng sát na. Còn người Phật tử khi giao thiệp cũng phải dè dặt e phạm đến giới luật hay phẩm giá của nhà tu. Chẳng hạn khi thiện nam tín nữ cung thỉnh chư Tăng đi đến tư gia, một cách thành thật và tôn kính thì chư Tăng mới được phép đến tư gia ấy. Vì vậy để bảo tồn giới luật và tinh hoa tươi đẹp ấy của nhà Phật, Phật tử phải hết lòng thành kính đối đãi với chư Tăng khi đến tư gia của mình, bằng cách ta không nên ngồi nơi cao quý và dành chỗ thấp kém cho chư Tăng, không nên dùng những món ăn quý và dâng cho chư Tăng những món ăn không ngon, kém giá trị. Nếu sự việc có xảy ra chư Tăng không bao giờ tỏ thái độ, vẫn điềm nhiên; nhưng lần thứ nhì, có sự cung thỉnh chư Tăng sẽ không đến dự, mặc dù theo giới luật các Ngài không có quyền đòi hỏi, phải xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo. Song vì phạm hạnh hay Tăng tướng của tôn giáo bị xúc phạm, nên luật bắt buộc chư Tăng phải xử sự như thế.

KHI NGƯỜI PHẬT TỬ CÚNG DƯỜNG TỨ VẬT DỤNG ÐẾN CHƯ TĂNG

Sự dâng cúng vật dụng đến chư Tăng là cách tạo nên nhiều phước báu của người Phật tử. Vì chư Tăng là những vị xuất gia, thì sự hộ độ của chúng ta đến các Ngài cũng là điều cần thiết. Hằng ngày ta dâng tứ vật dụng đến chư Tăng. Nói đến tứ vật dụng người Phật tử phải hiểu ngay là những món cần dùng cho tu sĩ Phật giáo như:

- Y phục: Tam y và những đồ phụ tùng.
- Vật thực: Các món ăn nhà Sư có thể dùng từ sớm mai cho đến giờ Ngọ
- Chỗ ngụ: Cốc, liêu, mền, chiếu, gối v.v...
- Thuốc ngừa bệnh: Sữa nước mía, mật ong, các thứ thuốc trừ bệnh.

Trong bốn món vật dụng, có thực phẩm là chúng ta dâng cúng đến chư Tăng từ bình minh vừa ló dạng cho đến 12 giờ trưa, còn ba món vật dụng còn lại người Phật tử có thể dâng cúng bất cứ lúc nào, nhưng điều đặc biệt chúng ta cần nhớ là:

a) Nếu là vật thực như trái cây có hạt nhỏ như: trái ổi, cam, lựu, ớt v.v... Khi cúng dường chúng ta cần phải làm cho đúng luật chế định tiếng Phạn gọi là Kappiya.

Ví dụ: Một dĩa trái cây vừa kể, trước khi dâng đến tay nhà sư ta chỉ cần cắt một trái để lên trên rồi dâng cả dĩa trái cây ấy, như thế được gọi là hợp lệ, nhà sư có dùng mà không sợ phạm tội giết hạt giống.

b) Tất cả các món vật dụng nhẹ, một người có thể bưng hoặc cầm được thì dâng đến gần nhà sư lối một hắc, một gang đưa tận tay chư sư. Còn những món vật dụng nặng nề hay không thể cầm được như cốc, liêu, giường, tủ v.v... chúng ta dâng chư Tăng bằng khẩu, nghĩa là đem những món ấy đến chùa và bạch với chư Tăng rằng: "Kính bạch chư Ðại Ðức Tăng, chúng con xin dâng những món (hài tên) này đến chư Tăng xin các ngài hoan hỷ thọ lãnh, cho chúng con được sự lợi ích. "

Lưu ý: Người Phật tử khi dâng cúng vật dụng phải là những vật dụng phát sinh hiệp theo lẽ đạo, được vậy thì phước báu mới được dồi dào, Bồ đề tâm mới phát triển.

KHI NGƯỜI PHẬT TỬ TỔ CHỨC LỄ

Bất cứ cuộc lễ nào thuộc Phật giáo, điển hình như dâng y, chúc thọ, trai Tăng, cầu siêu, cầu an v.v... Người Phật tử đều có thể tổ chức, muốn tổ chức những buổi lễ nói trên, trước hết chúng ta đến chùa bạch với vị trụ trì hoặc một vị tăng trưởng để xin được tổ chức.

Thí dụ như lễ trai Tăng chẳng hạn: Công việc đầu tiên là lễ bái Tam Bảo, kế đó xin thọ tam quy và ngũ giới (có thể đọc Phạn ngữ hay nghĩa cũng được), sau khi thọ giới xong thí chủ đọc bài kinh dâng cúng rồi bắt đầu đem những món cần thiết mà thí chủ đã chuẩn bị, xin dâng cúng đến chư Tăng. Tiếp theo chư Tăng tụng kinh phúc chúc, lúc chư Tăng tụng kinh thì thí chủ phải thành tâm chắp tay tỏ lòng thành kính và chăm chú nghe kinh. Chư Tăng phúc chúc xong rồi thí chủ nên hồi hướng phước báu đến thân bằng quyến thuộc và sau đó đến tất cả chúng sanh.

Tóm lại, buổi lễ trên là buổi lễ thường xuyên được Phật tử lưu ý, nhưng khi bố thí tâm phải trong sạch, những vật dâng cúng đều hiệp theo lẽ đạo thì phước báu mới được tròn đủ.

KHI NGƯỜI PHẬT TỬ THÍNH PHÁP

Pháp bảo là ngôi quý báu thứ hai trong Tam Bảo. Chúng ta là tín đồ hay cư sĩ bao giờ cũng phải tỏ lòng tôn kính, vì Pháp bảo là kim ngôn cao thượng của đức Thích Ca Mâu Ni. Sự tôn kính đối với Pháp bảo có nhiều cách và trường hợp khác nhau. Sự tôn kính qua lời nói như chúng ta không bao giờ xem thường, hay phỉ báng Pháp bảo bằng cách chê bai làm hạ giá trị của Phật ngôn. Sự thính Pháp, bố thí Pháp có rất nhiều phước báu, là trí tuệ chơn chánh phát sanh, nên hằng ngày chúng ta đến chùa nghe pháp hoặc đóng góp ít nhiều công của để in kinh, phổ biến.

Chúng ta cũng có thể thuyết pháp hay giảng đạo, phiên dịch kinh điển nhà Phật, mục đích giúp ích cho mọi người thông hiểu giáo lý từ bi vô lượng của đức Phật. Khi thính Pháp thì chúng ta cũng phải tỏ lòng thành kính chăm chú nghe, suy luận những lời Phật ngôn mà Pháp sư trùng tuyên lại. Không nên nói chuyện làm ồn hoặc tỏ vẻ khinh thường Pháp thí hoặc có thể bất bình hay sân hận vì bài Pháp có ý xây dựng chung.

Nói tóm lại, khi thính pháp người Phật tử phải tỏ thái độ sùng kính Pháp bảo, ngồi nghiêm trang hai tay chắp lại ngay ngắn, tâm hồn tập trung theo dõi lời giảng dạy, hãy xuy xét, đắn đo điều hay lẽ phải hầu ghi nhớ để áp dụng trong đời sống thường nhật của chúng ta.

KHI NGƯỜI PHẬT TỬ TẠO PHƯỚC BÁU

Chúng ta là người Phật tử, đối tượng thiêng liêng của chúng ta là Tam Bảo. Ðặc biệt trong ngôi Tam Bảo, ngôi thứ ba tức Tăng bảo có một giá trị liên hệ mật thiết với chúng ta. Ðức Phật gọi Tăng bảo là phúc điền của chúng sanh, tức là ruộng phước, nơi mà chúng sanh đem những hạt giống lành gieo trồng trên những thửa ruộng ấy và sẽ gặt hái hoa quả ở ngày vị lai. Nhưng chúng ta cần phải sáng suốt, tìm những thửa ruộng màu mỡ trước khi gieo trồng hạt giống lành ấy. Nghĩa là phải tìm những vị tu hành đúng theo chơn truyền chánh pháp và nghiêm trì giới luật trong sạch mà bố thí cúng dường. Khi bố thí tâm phải trong sạch, ta cúng dường với ý niệm dứt lòng tham lam. Ðược vậy ta sẽ tạo được phước báu cao quí. Những người không hiểu biết giáo lý hành động theo ý muốn riêng tư, họ bố thí để cầu danh, trục lợi thì chắc chắn kết quả sẽ không được cao đẹp, mà lắm khi còn có tội hay tốn công mất của vô bổ nữa là khác.

Vậy, khi bố thí ta cũng nên ý thức trách nhiệm để xứng đáng là một người Phật tử ngoan đạo.

PHẬT TỬ KHI NGHE KINH

Trong các nghi lễ Phật giáo, tụng niệm cũng là một nghi thức của chư Tăng như: Tụng kinh cầu siêu, cần an, kinh chúc thọ cho các bậc ân nhân, kinh chúc an lành cho nhà vua v.v...

Theo Phật giáo Nguyên Thủy thì bất cứ các nghi thức tụng niệm nào nói trên đều được một người hay một nhóm đông Phật tử tổ chức và cung thỉnh chư Ðại đức đến tham dự. Trước hết Phật tử cần phải trang hoàng nơi hành lễ cho trang nghiêm, nơi chư Tăng an tọa phải cao ráo hơn tín đồ. Sau khi hoàn tất các việc trên, chúng ta làm lễ thọ trì Tam quy ngũ giới, rồi thỉnh chư Tăng tụng kinh. Khi chư Tăng đang tụng kinh Chư Phật tử phải chắp tay tỏ lòng tôn kính, chăm chú nghe, cũng như giữ gìn sự yên lặng. Ðó là cử chỉ tỏ cho mọi người thấy sự sùng kính Pháp bảo và nội tâm mình cũng giữ được đức tánh trang nghiêm không xao lãng.

Chư Tăng hết lòng tụng niệm, Chư Phật tử thành tâm ngưỡng mộ nghe theo, nhờ sự hòa hợp một lòng tôn sùng Pháp Bảo đúng đắn như vậy, chúng ta mới có thể chính mình hưởng được phước báu đầy đủ và hồi hướng đến các bậc ân nhân có hiệu lực.

PHẬT TỬ TÂM NIỆM TRONG NHỮNG NGÀY BÁT QUAN TRAI GIỚI.

Bát quan trai giới định kỳ là một phương pháp xuất gia tạm cho các hàng tại gia cư sĩ, những kỳ Bát quan 8 ngày trong tháng là ngày mùng 5, 8, 14, 15, 20, 23, 29 hay 30, trong những ngày giới các hàng cư sĩ phải đích thân đến chùa, hoặc cũng có thể phát nguyện tại tư gia dưới điện thờ Phật từ rạng đông, để sự thọ giới được trọn vẹn phước báu.

Nếu chúng ta không bận bịu cho cuộc sống hàng ngày, thì 24 tiếng đồng hồ ngày giờ nên đến chùa xin nguyện thọ và trong suốt thời gian nghiêm trì Giới Luật tại chùa, Phật Tử khép mình vào khuôn khổ như đọc kinh, niệm Phật, chú tâm vào đề mục thiền định, bốn oai nghi đi, đứng, nằm ngồi phải yên tịnh, kiểm điểm những giới cấm và quán xét xem đã có phạm điều nào trong 8 giới. Ðồng thời theo dõi từng sát na trước khi hành động và ngăn cản không để phạm điều luật.

Ngoài việc trau giồi cho thân, khẩu, ý được trong sạch và thanh tịnh, chúng ta cũng có thể làm công quả trong chùa như: quét tước, lau chùi, hộ độ chư Tăng tạo thêm phần phước thanh cao và gieo duyên lành để trở nên người Phật tử đúng đắn, hầu làm gương cho kẻ thế.

PHẬT TỬ TÂM NIỆM HẰNG NGÀY

Khi đã nói là người Phật Tử, thì bao giờ cũng phải ý thức trách nhiệm và bổn phận của một người con Phật. Dù sống ở nơi phồn hoa đô hội, những đền chùa, thánh tích, hoặc bất cứ trong hoàn cảnh vui buồn nào, người Phật tử vẫn phải ghi nhớ và biết mình là người con Phật, tất cả những hành vi, cử chỉ đều phải được kiểm soát, tự phê phán khi mình hành động sai, quấy để đúng với tư cách của người đã thệ nguyện nương theo Tam Bảo. Hằng ngày ta nên tâm niệm, trước hết chỉ có Tam Bảo là đấng Tối thượng đáng cho ta nương theo, để lòng sùng kính được bảo tồn. Ta cần phải luôn nhớ đến 5 điều giới cấm, kiểm điểm từng giới một xem ta đã giữ gìn được trong sạch không.

Ngoài ra, ta còn phải kiểm điểm từng động tác qua tam nghiệp hay thân, khẩu, ý ta sẽ phạm chăng, nếu ta hành động như thế này hay thế kia. Mặt khác, chúng ta phải nhận thức cuộc đời là vô thường, khổ não và vô ngã và từng giây phút trong bốn oai nghi, tâm đều phải khắn khít trong đề mục thiền định. Khi có tâm niệm đúng đắn thì cuộc sống chúng ta không bị nhàm chán và lo âu, nỗi khổ niềm vui đối với người Phật tử là lẽ thường, không khiến cho chúng ta quá nông nổi khi có điều bất trắc xảy đến hay không quên mình để vui quá độ.

PHẬT TỬ ÐỐI VỚI CÁC NGHI LỄ THUỘC TẬP TỤC

Phật giáo là một tôn giáo, giáo hóa chúng sanh theo con đường giải thoát của Ðức Phật. Mục đích cứu cánh là Niết Bàn; người Phật tử chỉ nương theo hai Pháp học và Pháp hành, để tự tạo cho mình một hướng đi đến Chân Thiện Mỹ. Vì vậy những nghi thức trong Phật giáo được trình bày rất giản dị, không bày biện hay bịa đặt rườm rà, những sự chưng bày phuút tạp ấy không mang lại lợi lộc gì cho sự giải thoát.

Trước muôn ngàn phong tục tập quán của dân tộc, điển hình như ma chay, giỗ tổ, thí vàng v.v... Người Phật tử phải ý thức việc làm và cải cách như thế nào để những nghi lễ ấy hợp theo lẽ đạo.

Ví dụ: Ngày giỗ tổ xưa kia, ta mang vật thực lên giường thờ thắp hương đèn cúng vái, khi nhang đã tàn, vật thực được mang xuống rồi gia đình hội họp tất cả quây quần dự tiệc vui vầy. Thế là đã xong một nghi lễ theo thế hệ xa xưa. Nhưng với người Phật tử, chúng ta cho việc làm ấy xa chơn lý nhà Phật, và không ích lợi cho người quá cố, nên thay vì tổ chức như trên, người Phật tử cung thỉnh chư Tăng cúng dường vật thực hay để bát rồi hồi hướng phước báu cho người quá vãng.

Riêng phong tục có tính cách dị đoan, mê tín như cúng cô hồn, hay thí vàng là một tục lệ chung được phổ biến các nơi, do các nhà lãnh đạo mê tín ngày xưa bày ra, không ích lợi cho người quá vãng, cũng như người tại tiền, và sai chân lý nhà Phật, Phật tử không nên tham gia.

PHẬT TỬ KHI THỆ NGUYỆN

Nói về sự thệ nguyện trong Phật giáo thì dân tộc Việt Nam cũng như các dân tộc khác trên thế giới, khi đến đền, chùa và những nơi thờ phượng các thần linh, hay trong khi bố thí cúng dường đến ai người ta thường phát nguyện. Lời nguyện cầu của mỗi người tùy ở đức tin, sự hiểu biết và lòng hâm mộ của riêng tôn giáo mình. Lời thệ nguyện của một số người mê tín dị đoan thì họ thường xem các tượng Phật hay các thần linh là những đấng tối cao có quyền năng có thể ban ơn cho mình; họ nguyện cầu các đấng thiêng liêng ấy phò hộ cho tai qua nạn khỏi, tài lộc phát sanh, thành công như ý.... Họ xem các vị thần linh ấy như là những thần tượng có nhiều oai lực, thưởng phạt loài người, tin rằng với những lễ vật mà họ thành kính hiến dâng, lòng ngưỡng mộ tha thiết, van vái trước các hình tượng ấy thì các vị sẽ ban ơn bố đức cho họ. Với những cử chỉ và lòng tin sai lầm như vậy đã lưu truyền từ cổ chí kim, từ ông cha ta cho đến chúng ta ngày nay, cứ tin tưởng và làm như vậy. Rất hiếm có người hiểu rõ chơn lý từ bỏ các điều sai ấy thậm chí còn phổ biến tư tưởng dị đoan mê tín không căn cứ trong tôn giáo như Phật giáo để Phật tử hành động theo.

Phật tử là người hiểu rõ chơn lý ngày nay, đã ý thức được chánh tà, nên tự mình từ bỏ mê tín dị đoan, Không tin tưởng các vị thần linh, không lễ bái cúng dường, không cho rằng những vị đó có thể ban bố phước lành. Song đứng trước Phật đài, hay trong những khi làm việc lành người Phật tử có thể có những lời nguyện như:

a) Dưới ánh hào quang của đức Thế Tôn có Chư Tăng chứng giám lòng trong sạch của con, hôm nay con xin cúng dường trì trai giữ giới, phụng sự Tam Bảo và thực hiện pháp lành hợp theo lẽ đạo, qua hành động ấy con xin nguyện được đạo quả viên thành và Bồ đề tâm viên mãn.

b) Trước Phật đài có chư Tăng chứng kiến, do lòng trong sạch cúng dường hợp theo lẽ đạo, do nhờ oai lực phước báu ấy con xin nguyện sớm diệt trừ được lòng tham lam, khi tái sanh kiếp nào con hằng gặp chánh pháp, để sớm được giải thoát.

c) Dưới chân Phật Tổ có chư Tăng chứng minh, phước báu phát sinh do lòng trong sạch hành đạo hay cúng dường tài và pháp thí hợp theo lẽ đạo con xin hồi hướng đến cửu huyền thất tổ, Ông bà, cha mẹ, nội ngoại hai bên. Do phước báu ấy con cầu xin các vị ấy thoát khỏi khổ cảnh hay phúc được tăng bồi.

Người Phật tử có thể nguyện một trong những lời thệ nguyện trên, hoặc những lời phát nguyện tương tự nhưng không ẩn ý có tính cách mê tín dị đoan. Vì những lời thề nguyện sai trái ấy chẳng những không có hiệu quả mà còn có thể phạm tội là đàng khác. Hoặc chúng ta không cần phải nguyện chi cả mà chỉ cầu mong được thoát khỏi kiếp luân hồi.

BỔN PHẬN ÐỐI VỚI CHA MẸ

Theo Phật Giáo đối với cha mẹ cái ơn mà người con mang trong lòng không thể nào lường được, dù cho con có phải vì cha mẹ hy sinh đến tánh mạng đi nữa cũng chỉ có thể đáp lại phần nào trong muôn một công ơn sanh thành dưỡng dục mà thôi. Vì vậy đức Thế Tôn có dạy bổn phận làm con đối với cha mẹ có 5 pháp:

1. Nuôi dưỡng cha mẹ (Bharaṇa).
2. Làm việc thay thế cha mẹ (Kiccakaraṇa).
3. Gìn giữ gia tộc được bền vững (Kulavaṃ saṭhapana).
4. Nết hạnh xứng đáng hưởng gia tài (Dayajjā hapaṭipajjana).
5. Tạo phước hồi hướng khi cha mẹ đã quá vãng (Dakkhināṇuppadāna).

Cha mẹ là nguồn hạnh phúc vô bờ bến của các con, vậy bổn phận làm con, chúng ta hãy tôn trọng ý muốn của cha mẹ, trong lời nói, trong việc làm, cách đi đứng, trong tác phong hằng ngày, phải tạo cho cha mẹ đời sống an nhàn, làm việc giúp đỡ cha mẹ hy sinh những thích thú riêng mình để làm vui lòng cha mẹ. Giữ tiếng tốt cho gia đình, dù cha mẹ khuất bóng, luôn luôn tôn trọng thanh danh gia tộc như vật thiêng liêng cao cả.

Về mặt tinh thần, chúng ta không phải chỉ lo cho cha mẹ được đầy đủ tiện nghi vật chất là đủ, mà còn phải cố gắng tạo lập cho cha mẹ một đời sống tinh thần an vui hạnh phúc; hướng dẫn cha mẹ sống một cuộc đời đạo hạnh, bố thí, trì giới, tham thiền. Khi cha mẹ quás vãng, các con làm điều thiện, hồi hướng những quảr lành đó cho cha mẹ, vì khi cha mẹ qua đời đôi khi thọ sanh vào khổ cảnh, hằng ngày mong chờ thọ hưởng những phần phước cao quí của thân nhân quyến thuộc để có thể được siêu thoát, những hành động đó vẫn đem lại hạnh phúc cho người con hiếu thảo và cũng để tỏ lòng tri ân cha mẹ, hầu nêu gương hiếu đạo cho con cháu noi theo. Nếu người con có đầy đủ năm điều Phật dạy trên sẽ tạo cho mình trở nên một người con hiếu để, được mọi người kính vì và tạo cho mình một sự hạnh phúc cao thượng hiệp theo lẽ đạo.

CHA MẸ ÐỐI VỚI CON

Lòng thương lai láng của cha mẹ tựa hồ như nước mưa từ không trung rơi xuống, đem lại bao nhiêu hạnh phúc cho các con, không màng đến sự biết ơn. Thật vậy người làm cha mẹ không bao giờ trông dợi sự đền ơn trả thảo của con, một người cha lành, một người mẹ cao quí bao giờ cũng dành để cho con tất cả cái gì quí báu nhứt của mình, hy sinh tất cả và tìm hạnh phúc an vui của chính mình trong sự an vui hạnh phúc của con, dù giàu hay nghèo cha mẹ luôn luôn nghĩ đến vấn đề giáo dục cho con, nếu phải tiêu xài bao nhiêu tiền của cũng không tiếc. Niềm vui sướng nhứt đời của cha mẹ là thấy con được nên người và sống đầy đủ trong sự yên lành vui vẻ.

Một khi cha mẹ muốn dắt dẫn con đi con đường thiện, cha mẹ phải làm gương, sống cuộc đời hiền lương đạo đức, con cái sẽ xu hướng theo hành động của cha mẹ và làm những việc của cha mẹ làm không cần hiểu lý do. Rất khó gặp được đứa con cao thượng khi cha mẹ hư hèn, cũng như cha mẹ đạo đức mà con cái hư hỏng, đó cũng do nghiệp lực của tiền kiếp, nhưng cũng ảnh hưởng một phần nào của cha mẹ mà thôi.

Vậy làm cha mẹ phải thận trọng trau dồi thân, khẩu cho trong sạch để tránh truyền nhiễm những tật xấu cho con về tinh thần và thể xác. Theo Phật giáo sau khi sinh thành, lúc dưỡng dục cha mẹ còn có năm đức độ đối với con:

1- Ngăn cấm không cho con làm điều ác (Pāpā ṇivārenti).
2- Hướng dẫn con làm điều lành (Kalyāṇo nivesenti).
3- Cho con học hỏi nghề nghiệp (Sippaṃ sikkhāpenti).
4- Dựng vợ gả chồng cho con tùy gia phong (Paṭirupena dārena saṃ yojenti).
5- Chia của cải cho con hợp thời (Samaye dāyajjaṃ a niyyādenti).

Trên đây là năm điều căn bản của cha mẹ đối với con nam, nữ với tất cả lòng bao dung độ lượng. Ngược lại nếu thiếu năm điều căn bản trên, kẻ làm cha mẹ không thể hiện đầy đủ bổn phận của mình đối với con cái.

BỔN PHẬN ÐỐI VỚI CHỒNG

Ðức tánh tự nhiên thuộc về những gì gọi là mềm mại, yếu ớt hay nhu mì v.v... thì thường thường tượng trưng cho nữ giới. Nên xưa nay nữ giới được xem như đại diện cho thành phần vừa kể.

Hôn nhân là cuộc sống chân thành giữa người vợ và người chồng, nhưng nhiều người đã làm cho đời sống gia đình trở thành một tội khổ, vì thiếu hiểu biết, thiếu khoan hồng và thiếu kiên nhẫn. Nếu chồng có một vài khuyết điểm vợ có thể sửa đổi bằng cách êm ái, dịu dàng, nhắc nhở và chịu đựng. Ngoài ra người vợ cũng phải biết đỡ đần những công việc để không làm phiền đến chồng..., được vậy đời sống gia đình mới hạnh phúc. Theo Phật giáo đức Phật có dạy người vợ cần phải có năm đức tính sau đây:

1. Biết sắp đặt việc nhà vén khéo (Susanvihitakammantā).

Như đã nói vợ là nhân vật quan trọng trong gia đình. Bởi mỗi khi có người xa gần thăm viếng gia đình, nhà cửa được khen bị che là vén khéo hay vụng về cũng do người nội trợ.

2. Sự tiếp đãi và giúp đỡ quyến thuộc chồng như của mình (Susangahitaparijanā).

Sự lo lắng, cung phụng của người vợ, cũng như kính trên nhường dưới đối với thân tộc của mình như thế nào thì người vợ kính mến chồng cũng áp dụng đối với quyến thuộc nhà chồng như của mình, đó là một đức tính tốt của người vợ hiền trong gia đình.

3. Biết giữ của chồng giao phó (Sambahañca anurakkhati)

Của cải chồng giao phó cất giữ, không nên tùy tiện xài phung phí, cờ bạc, đút lòn, cho riêng thân quyến mình. Bởi sự lén lút không thành thật với nhau, hạnh phúc sẽ bị đổ vỡ, sợi dây thân ái của đôi tâm hồn được bền chặt hay không đều do sự khôn khéo của người vợ trên lãnh vực này.

4. Không tư tình (Anaticārinī).

Ðiều tà dục là một trong năm giới cấm trong Phật giáo. Vì là nguyên nhân khiến cho hạnh phúc gia đình tan nát và từ đó sẽ đưa con người sa vào bốn con đường ác đạo.

5. Giỏi dắn, siêng năng mọi việc trong gia đình (Dakkā ca hoti analasā sabbakiccesu).

Mọi việc trong gia đình là bổn phận của người vợ, từ việc nhỏ đến việc to đều phải chu toàn.

Trên đây là những Pháp của vợ hiền đối với chồng, là những đức tánh không thể khiếm khuyết được của bất cứ một người vợ lý tưởng nào. Nếu họ muốn cho gia đình được bảo tồn hạnh phúc thì phải học hỏi và áp dụng cho gia đình mình.

BỔN PHẬN ÐỐI VỚI VỢ

Nói về một người chồng đúng nghĩa trong gia đình phải có nhiều tư cách tốt đối với người vợ, để xứng đáng cho vợ hiền kính mến và thương yêu. Người chồng cũng không nên đối xử với vợ như người làm trong nhà, mặc dù chính mình là người "tạo nồi cơm" cho gia đình, phải giúp vợ tạo hòa khí yên vui. Trong kinh Singālovāda-sutta, Ðức Phật có dạy rằng đối với gia đình muốn được thành công như ý, người chồng phải có năm pháp sau đây:

1- Thương mến và nói lời dịu ngọt đối với vợ (Sammānañāya).

Phàm người chồng đứng đắn, ở với nhau đến răng long tóc bạc con đàn cháu đủ cũng luôn luôn có hành vi lịch sự đối với vợ hiền, dù bất cứ ở hoàn cảnh nào.

2- Không khinh bỉ hà hiếp vợ (Avimānañāya).

Người đàn ông không bao giờ sử dụng quyền thế khinh bỉ hay đánh đập vợ, dù có thiếu một trong những phận sự của người đàn bà đối với gia đình: Tòng phụ, tòng phu, tòng tử.

3- Không tư tình khiến vợ ghen tương sầu não (Anaticariyāya).

Chồng đứng đắn luôn luôn một lòng thương vợ, không tư tình để hạnh phúc gia đình tránh khỏi sự tan nát đổ vỡ.

4- Phải tin cậy và phó thác cho vợ các công việc nội trợ (Issariyavossaggena).

Tâm lý người đời ai cũng vậy, riêng đối với gia đình thì vợ chồng đều phải có bổn phận đối với gia đình riêng của mình, khi có bổn phận tức là họ phải có quyền hành. Mọi việc trong ngoài có liên quan với gia đình, người chồng chẳng những giao trọn quyền cho vợ và trực tiếp khuyến khích mà phải bàn bạc trước khi quyết định một công việc gì. Phải tin cậy vợ không để sự nghi kỵ nẩy nở khiến tình thương yêu đầm ấm đối với vợ bị lợt lạt hay mai một.

5- Sắm cho vợ những vật trang điểm tùy sức (Alankārānupadānena).

Ở đời con người dù thuộc lãnh vực nào của cải đều có giới hạn, nên nói rằng tùy sức hay khả năng, là vì ý muốn dạy con người phải thực hiện cho bằng được dù ít hay nhiều cũng phải có cho những điều cần thiết, vì thiếu nó thì hạnh phúc sẽ không thành đạt.

Trên đây là những pháp mà bất cứ người đàn ông nào cũng phải học hỏi, cũng có thể nói đó là năm đức tánh tốt của người chồng đối với vợ. Ðó là đức tánh không thể thiếu được nếu ai muốn gia đình đuợc dồi dào hạnh phúc hiệp theo lẽ đạo.

BỔN PHẬN HỌC TRÒ ÐỐI VỚI THẦY

Ðể đáp lại đức độ cao cả của một vị thầy đã dày công dạy dỗ dù văn hay võ, đời hay đạo cũng là thầy. Nhưng theo Phật giáo thì Thầy giáo dục đạo đức là vị thầy rất cao quí, vì thầy dạy có tánh cách hướng dẫn học trò ra khỏi thế gian, không như thầy giáo dạy chữ nghĩa hay võ nghệ vì còn luân chuyển trong thế gian. Chúng ta hãy ghi nhớ dù một giờ hay một ngày người giúp ta mở mang trí tuệ, học những điều hay cũng là một vị thầy đáng cho ta kính trọng và biết ơn. Theo Phật giáo học trò đối với thầy phải có đầy đủ năm điều sau đây:

1- Ðứng dậy tiếp rước khi thầy đến (Utthānena).
2- Hầu hạ thầy y như thì giờ được ấn định (Paccuppaṭṭhānena).
3- Nên vâng lời thầy dạy bảo (Sussusāya).
4- Hầu hạ giúp đỡ công việc lặt vặt cho thầy (Paricariyāya).
5- Phải kính trọng thầy trong giờ học (Sakkaccaṃ sippuggahaṇena).

Qua năm điều vừa kể, chúng ta cũng đã nhận rõ được vai trò của mình là những đứa học trò phải làm gì để đối với thầy Tổ. Chúng ta chỉ y cứ bấy nhiêu lời đã được thốt ra kim khẩu của Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, Ngài đã lưu tâm, đã rải lòng từ bi, tế độ chúng ta để trở nên những người học trò tốt, đối với đức dộ khả kính của một vị thầy. Chúng ta nên hết lòng học hỏi và thực hành để vẹn toàn tài đức mai hậu.

BỔN PHẬN THẦY ÐỐI VỚI HỌC TRÒ

Người đời ai cũng có bổn phận. Ðối với gia đình cha mẹ có bổn phận lo cho con nên người; đối với quốc gia thì một vị Vua phải có bổn phận lo cho công dân an cư lạc nghiệp. Cũng vậy, đối với học trò thì thầy phải làm sao cho vuông tròn, xứng đáng là một vị Tổ sư.

Một vị thầy là người phải hết lòng tận tâm, tận lực dắt dẫn học trò, có bổn phận chỉ dạy và thương yêu chúng, giúp chúng mở mang trí tuệ hầu trở nên một người con ngoan trong gia đình và một công dân tốt cho quốc gia. Thầy có một trách nhiệm tương đương như cha mẹ, nên cần đòi hởi có một đức tính cao cả, một trách nhiệm và lòng vị tha như nhau. Theo Phật giáo thầy đối với học trò có năm điều:

1- Dạy dỗ để chúng trở nên người học trò tốt (Suvinītamaṃ vinenti).
2- Giảng dạy, huấn luyện chúng trở nên tài giỏi (Suggahitaṃ gāhāpenti).
3- Cần mẫn, giảng dạy đầy đủ (Sabbasippesu tamsamakkhāyinobhavanti).
4- Khen thưởng học trò trước bạn bè và những người có chức phận (Mittāmaccesu pativedenti).
5- Có thiện ý bảo bọc học trò mọi phương diện (Disāsu parittānaṃ karonti).

Vì vậy, nếu muốn trở nên một vị thầy tốt đối với học trò thì trên đây là năm yếu tố căn bản để giúp một vị thầy thành công. Vậy ta nên suy sét và nhận định rõ ràng những điều ấy để được kết quả như ý theo Phật ngôn.

BỔN PHẬN CHỦ ÐỐI VỚI TÔI TỚ

Ðạo đức là nền tảng của con người. Người có đạo đức đối với đời hay đạo là những đóa hoa tươi thắm giúp cho con người nhìn thấy an vui và hạnh phúc. Vì thế, là chủ có đầy đủ oai quyền đối với tôi tớ, dù ta có hành hạ, chửi mắng, đày đọa thế mấy kẻ tôi đòi cũng phải dằn lòng chịu đựng vì biết thân phận mình. Vậy là chủ hơn bao giờ hết chúng ta phải mở lòng rộng lượng đối với kẻ dưới tay, nên thưởng phạt công minh, dù sao họ cũng là một con người, mà là con người kém may mắn sống một cuộc sống vất vả, đi làm hầu tìm kiếm đồng lương để nuôi nấng kiếp sống tạm bợ này mà thôi, thì sự giúp đỡ hay thương yêu họ cũng là một đức tánh thể hiện lòng từ bi, nhân ái của ta đối với họ. Theo đạo Phật người chủ phải có năm điều đối với tôi tớ:

1- Phân công tùy sức lực người (Yathā-balam kammanta savidhānena).
2- Cung cấp thực phẩm và tiền công đúng mức (Bhattavettanānuppadānena).
3- Ân cần săn sóc tôi tớ khi có bệnh (Gilānuppaṭṭhanena).
4- Chia sớt món ngon vật lạ khi có (Acchariyānaṃ rasānaṃ saṃ vibhāgena).
5- Nên cho dưỡng sức trong khi mệt nhọc (Samaye vossaggena).

Chúng ta xét thấy năm pháp vừa kể chứa đựng đầy tình thương của con người đối với con người, là những câu Phật ngôn vô cùng quý giá rất đáng cho chúng ta noi theo. Nếu con người ý thức được lời cao cả ấy của đức Như Lai thì chúng ta đương nhiên có một đức hạnh đáng khen vậy.

BỔN PHẬN TÔI TỚ ÐỐI VỚI CHỦ

Làm người khó, chịu khó để trở nên một con người trọn vẹn, nhất là làm tròn bổn phận của mình đối với mọi người, mọi giới, để được vuông tròn thì ít nhất ta cũng phải ý thức được trách nhiệm của mình đối với phận sự mà mình gánh vác. Nên bổn phận tôi tớ đối với chủ là một việc khó, vì phải thực hiện đúng mức trách nhiệm của mình để khỏi phụ lòng chủ và cũng để xứng đáng ở đồng lương mà mình đã thọ hưởng và sự tin cậy ở những người chủ xứng đáng. Theo giáo lý nhà Phật có dạy tôi tớ đối với chủ có năm pháp:

1- Phải luôn thức sớm làm việc trước chủ (Pubbaṭṭhāyino).
2- Phải luôn nghỉ sau chủ (Pachānipatino).
3- Chỉ lấy vật nào chủ đã cho (Dinnādāyino).
4- Nên chú ý cẩn thận và kỹ lưỡng khi làm việc (Sukatakammākārakā).
5- Nên nói những điều tốt của chủ (Kittivaṇṇharā).

Muốn thể hiện bổn phận của một người tôi tớ cao đẹp, thiết nghĩ không gì hơn ta hãy căn cứ theo lời Phật dạy trên. Bởi nếu là một Phật tử chân chính thì bao giờ cũng phải lấy pháp Phật để áp dụng cho đời sống hiện tại, sự thành công tốt đẹp của một người Phật tử thì đối với kẻ tôi tớ dù là Phật tử hay ngoại đạo cũng sẽ thành công ít nhiều tùy đức tin của mỗi cá nhân.

Vậy thiết tưởng chúng ta cũng nên lấy kim ngôn cao thượng của Chư Phật để làm mẫu mực, và tin rằng sẽ được thành công không khó.

BỔN PHẬN ÐỐI VỚI BẠN HỮU

Tục ngữ ta có câu: "Học thầy không tày học bạn", thầy là người dạy mình, lẽ tất nhiên học thầy rất nhiều, nhưng bạn là người ở gần mình hơn, khi tâm sự, lúc vui đùa, bạn ảnh hưởng tới mình rất nhiều, nếu bạn hay thì mình tiêm nhiễm được cái hay của bạn, nếu bạn dở mình cũng bị lây cái dở của bạn nên ta học bạn nhiều hơn học thầy. Nghĩa bóng câu này nói tới ảnh hưởng của bè bạn đối với nhau là mạnh, người ta có thể nhờ bạn mà tấn tới được.

Vậy, bạn bè rất hệ trọng đối với đời sống con người, chúng ta nên giữ tình bạn được bền chặt để khi hữu sự trên bước đường đời không bị lẻ loi. Phật giáo có dạy rằng đối với bạn bè bằng những pháp sau đây:

1- Cho tiền của đến bạn (Dānena).
2- Nói lời tao nhã với bạn (Piyavajjena).
3- Tạo nên điều lợi ích cho bạn (Atthacariyāya)
4- giữ tâm tính bình đẳng đối với bạn (Samānattatāya)
5- Không có ý dối để giấu giếm chuyện riêng với bạn (Avisaṃ vādanatāya)

Thiết tưởng không phép lạ nào hơn lời vàng ngọc của Ðức Chí Tôn. Ngài là thầy chẳng những của nhân loại mà của cả chư Thiên nữa. Vậy, nếu chúng ta căn cứ theo Phật ngôn để áp dụng cho đời sống thường nhật thì tưởng không có gì quí báu cho bằng. Nên để sự duy trì tình bạn được tốt đẹp, chúng tôi khuyên mọi người nên thành tâm y theo lời được miêu tả trên.

BỔN PHẬN ÐỐI VỚI CHÚNG SANH

Chúng ta là người Phật tử ai cũng biết rõ tôn chỉ từ bi của đức Thích Tôn. Lòng từ bi bác ái của nhà Phật không hẹp hòi như của kẻ phàm phu, là một tinh thần rộng bao la chẳng những riêng đối với gia đình, với giống nòi, với quốc gia, với nhân loại mà đối cả với toàn thể chúng sanh không giới hạn. Vị Phật Tổ ra đời trước đây 25 thế kỷ, Ngài trước tiên cũng vì nhận thấy sự khốn khổ triền miên của chúng sanh; nên Ngài hy sinh cuộc đời vương giả, nhung lụa để đổi lấy màn trời chiếu đất, còn da bọc xương, để mưu cầu hạnh phúc cho muôn loài vạn vật chứ nào phải của riêng Ngài, của Hoàng tộc hay của Trung Ấn Ðộ. Chúng sanh vì không hiểu được sự vô thường biến đổi của vạn vật, khổ não, vô ngã của thể chất và tâm hồn, vì là phàm tình chỉ biết mê say trụy lạc với cảnh phù du mà lầm tưởng rằng vĩnh cửu.

Sanh ra ở đời con người đã phải chịu thọ hưởng những cảnh khổ của sự sanh, già, đau chết. Chúng ta có cùng một kiếp sống tạm bợ, thì sao chúng ta không thương yêu nhau?

Ðối với Phật giáo, chúng sanh là những con người, những con vật có thức tánh, song sở dĩ khác nhau ở giàu, nghèo hay người, thú lớn, nhỏ là vì nghiệp lực của mỗi chúng sanh đã tạo tác mà thôi. Vì vậy, đức Thế Tôn nhắn nhủ chúng ta hãy thể hiện lòng từ bi của người con Phật, chẳng những riêng cho cá nhân hay nhóm người, mà đối với chúng sanh vô hạn định, có như thế sự an vui tuyệt đối mới đến với ta. Trên đây là một vài nét đại cương về bổn phận của người Phật tử đối với chúng sanh, Phật tử chúng ta đã, đang và sẽ mãi mãi duy trì đức tính từ bi. Chúng ta áp dụng cho ta, cho mọi người không phân biệt thân sơ hay màu da chủng tộc, thú hay người; đó là đức tính đại từ bi của chư Phật Tổ và Phật tử khắp năm châu.

PHẬT TỬ VỚI PHÁP LỤC HÒA

Phật giáo dạy người Phật tử phải đối đãi với nhau bằng pháp Lục Hòa. Từ việc nhỏ đến việc lớn, đạo cũng như đời đều phải có sự hòa hợp mới thành tựu. Trong gia đình có sự hòa hợp thì sẽ có hạnh phúc; một quốc gia có sự hòa hợp sẽ được thịnh vượng; nhân loại có sự hòa hợp thì sẽ có hòa bình an lạc.

Lục Hòa có sáu pháp, cư xử với nhau cho thuận hòa, sự hòa thuận của đạo Phật là để đoạt được mục đích giải thoát; sau đây là sáu pháp Lục Hòa:

1- Thân hòa: Cùng ở chung hòa hợp một nơi (Mettaṃ kāyakammaṃ).

Con người nếu biết hòa hợp thì dù không cùng huyết thống, nhưng khi đã sống chung, có chung một ý tưởng, một mục đích cao cả, dù ở chung bao nhiêu và bao lâu cũng có thể hòa thuận được.

2- Khẩu hòa: Lời nói ôn hòa không tranh cãi (Mettaṃ vacīkammaṃ).

Chúng ta chỉ có thân hòa nhã với nhau chưa đủ, mà cần phải có cả khẩu hòa nữa. Khẩu luôn luôn nói lời dịu dàng, hòa nhã, không tranh cãi. Người có khẩu hòa gặp việc gì đem ra bàn cãi cho ra lẽ, thì cũng dùng lời nói ôn hòa nhã nhặn để bàn luận.

3- Ý hòa: Ý kiến hay tán thành (Mettaṃ manokammaṃ).

Người Phật tử phải luôn luôn có tâm tánh hòa hiệp vui vẻ không thù hiềm ganh tỵ, bên trong tâm tính không còn thắc mắc, ganh ghét chất chứa. Muốn có ý hòa thì phải có tâm hỷ xả bỏ những điều buồn phiền, tư tưởng chơn chánh thì tâm mới hòa hợp.

4- Lợi Hòa: Lợi lộc hợp pháp nên chia nhau thọ hưởng (Lābhā dhammikā).

Khi có được sự lợi lộc chơn chánh phát sanh ta nên sống hòa hợp, nghĩa là cân phân đồng đều và chia xẻ cho nhau thọ hưởng, không thiên vị, kẻ ít người nhiều, kẻ tốt người xấu.

5- Giới hòa: Ðồng y giới luật tu hành (Sīlasāmaññagato).

Giới luật là phần hệ trọng đối với người tu Phật cũng như trong xã hội, các đoàn thể, các nhà trường hay gia đình, đều cần phải có kỷ luật. Nếu một người hay một đoàn viên không giữ kỷ luật thì đoàn thể, gia đình hoặc nhà trường đó sẽ gặp nhiều trở ngại và sẽ bị tan rã. Mặt khác giới hòa cũng có ý muốn ám chỉ tùy một luật lệ nào của một tôn giáo.

Theo Phật giáo người Phật tử tại gia phải có Ngũ giới, Bát quan trai giới. Ðối với Tăng sĩ: Sa di có Thập giới, Tỳ Khưu Tăng: 227 giới, Tỳ Khưu Ni: 311 giới. Mọi giới tu hành đều phải biết bổn phận của mình gọi là Giới hòa.

6- Kiến Hòa: Kiến thức chân chánh (Diṭṭhisāmaññagato).

Phật tử nên chỉ dạy cho nhau cùng hiểu biết kinh luật nhà Phật; người hiểu biết trước có bổn phận chỉ vẽ cho người sau cùng lãnh hội. Ðiều này rất hệ trọng, vì sự hiểu biết cần phải hiểu rõ chắc chắn chánh tà. Nếu sự hiểu biết sai lầm, truyền giáo lại không đúng chánh pháp sẽ trở thành tà vạy. Ngược lại sự hiểu biết chơn chánh sẽ giúp cho ta những người liên hệ được an vui hạnh phúc và phát sanh trí tuệ.

Vậy, người Phật tử chúng ta áp dụng y theo pháp Lục Hòa mà đức Thế Tôn đã giáo hóa, sẽ sống an vui và hợp theo lẽ đạo.
/11
 

  Ý kiến bạn đọc

Mã bảo mật   

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây