Tìm Kinh Sách
 
        Kinh Sách FULL

Kinh Nhật Tụng Cư Sĩ

HỆ PHÁI NAM TÔNG - THERAVĀDA

KINH NHẬT TỤNG CỦA CƯ SĨ
TỲ KHEO TĂNG-ÐỊNH HỢP SOẠN
PL. 2539 - TL. 1995


MỤC LỤC
Phần [01]

I. LỄ BÁI TAM BẢO

- Thỉnh Chư thiên
- Lễ bái Xá lợi Phật

Phần [02]

II. LUẬT CƯ SĨ TÓM TẮT

- Quy y Tam Bảo và Thọ Giới
- Giải Luật Cư Sĩ Ðại cương

Phần [03]

III. CẦU AN VÀ CẦU SIÊU

A) KINH CẦU AN

Thỉnh Pháp sư
Hồi hướng sau khi thính pháp
Kệ Ân đức Phụ Mẫu
Bài tụng đêm Sám hối
Rải Tâm Bác ái
Hồi hướng Phước (Phước căn...)
Kệ Vô thường, Khổ não, Vô ngã
Hạnh Phúc Kinh
Kinh Tam Bảo (YĀNĪDHA)
Tám Kệ Ngôn

Phần [04]

Kinh GIRIMĀNANDA
Kệ Phật cảm thắng Ma vương (Rằm tháng Giêng)
Kệ Phật nhập Niết Bàn
(Rằm tháng Tư)
Kệ tiểu sử Phật Thích Ca

Phần [05]

Kinh Từ bi
Sưu tập các bài kệ

B) KINH CẦU SIÊU

- Các bài Kệ Ðộng Tâm
- Chúc người mới Qui y
- Hồi hướng phước đến Chư Thiên
- Năm điều Quán tưởng
- Kệ tụng khi nhiễu Phật trong lễ Dâng Y

Phần [06]

IV. NGHI THỨC VÀ LỄ GIÁO

- Nghi thức các buổi lễ
- Lễ giáo của Phật tử

-ooOoo-

Lời Tựa

Thời gian gần đây, số kinh sách không đủ đáp ứng nhu cầu của Phật tử, nhất là giới Phật tử tại gia cần có một quyển kinh đọc tụng hằng ngày.

Nhận thấy quyển "Nhựt Hành của người tại gia tu Phật" do Ngài Hòa Thượng HỘ TÔNG, soạn và quyển "Nhật Hành của cư sĩ" do Hòa Thượng PHÁP TRI tái bản tương đối đầy đủ để Phật tử tham gia trong các khóa lễ tụng đọc và thực hành hằng ngày.

Ðáp lại lòng mong mỏi của chư Phật tử, chúng tôi mạn phép đúc kết lại thành một quyển "Kinh Nhật Tụng của cư sĩ".

Kính dâng phần phước pháp thí đến Hòa Thượng Hộ Tông và các vị cao Tăng đã dầy công soạn dịch quyển kinh này.

Ước mong Phật pháp được trường tồn, hưng thạnh đến năm ngàn năm.

Ðại đức TĂNG ÐỊNH
Ủy viên Ban Nghi Lễ Trung ương, GHPGVN
Trụ trì KỲ VIÊN TỰ, Quận 3, Tp Hồ Chí Minh

Source: BuddhaSasana

Chương 7: TỤNG BỐ CÁO HẠNH PHÚC KINH

TỤNG BỐ CÁO HẠNH PHÚC KINH

Xin thỉnh tất cả chư Thiên ngự trong hư không thế giới, hoặc ngoài hư không thế giới này, là bậc đã có lòng an tịnh và đã quy y Tam Bảo, là bậc năng chuyên cần việc hạnh phúc.

Xin thỉnh tất cả chư Thiên, ngự trên Tu Di sơn vương, tinh anh bằng vàng ròng cao thượng.

Xin thỉnh tất cả chư Thiên là bậc hiền triết (Sappurisa) đồng cư hội nơi đây, đặng nghe lời vàng của đức Thích Ca Mưu Ni, là pháp vô lượng làm cho phát sanh điều hoan lạc.

Sự phước báu mà chúng tôi đã làm, có thể độ thành tựu các thứ quả, cầu xin Dạ Xoa, Chư thiên và Phạm thiên, trong cả thế giới Ta Bà đều hoan hỉ thọ lãnh phước ấy.

Tất cả Dạ xoa, Chư thiên cùng Phạm thiên khi đã thọ lãnh phước ấy, xin đồng tâm hoan hỉ trong Phật pháp. Xin dứt lòng dễ duôi và tùy phương tiện quí báu để hộ trì Phật pháp.

Cầu xin Phật pháp hằng được thạnh đạt và chúng sanh hằng được tấn hóa.

Cầu xin tất cả chư Thiên hộ trì Phật pháp và tiếp độ chúng sanh.

Cầu xin cho tất cả chúng sanh đều được yên vui, được vô khổ cụ, là người có thiện tâm luôn cả thân bằng cùng quyến thuộc.

Tất cả nhơn loại cùng chư Thiên trong mười ngàn thế giới Ta Bà, hằng mong cầu và cố gắng tìm xét trong mười hai năm, những điều hạnh phúc vẫn chưa tìm thấy, xôn xao thấu đến cõi trời Phạm thiên trong khi ấy.

Ðức Phật có giảng giải những sự hạnh phúc làm cho các tội lỗi đều phải tiêu diệt, chúng sanh nhiều không xiết kể, đã nghe và đã được dứt khỏi các sự thống khổ.

MAṄGALA SUTTA

Evam me sutaṃ .

Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.

Ekamantaṃ ṭhitā kho sā devatā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi.

Bahū devā manussā ca maṅgalāni acintayuṃ ākaṅkhamānā soṭṭhānaṃ brū himaṅgalamuttamaṃ :

1- Asevanā ca bālānaṃ paṇḍitānañca sevanā pū jā ca pū janīyānaṃ etaṃ maṅgalamuttamaṃ .

2- Paṭirū padesavāso ca pubbe ca katapuññatā attasammāpaṇīdhi ca etaṃ maṅgalamuttamaṃ .

3- Bāhusaccañca sippañca vinayo ca susikkhito subhāsitā ca yāvācā etaṃ maṅgalamuttamaṃ .

4- Mātāpitu upaṭṭhānaṃ puttadārassa saṅgaho anākulā ca kammantā etaṃ maṅgalamuttamaṃ .

5- Dānañca dhammacariyā ca ñātakā-nañca saṅgaho anāvajjāni kammāni etaṃ maṅgalamuttamaṃ .

6- Aaratī viratī pāpā majjapānā ca saññamo appamādo ca dhammesu etaṃ maṅgalamuttamaṃ .

7- Gāravo ca nivāto santuṭṭhī ca katañ-ñutā kālena dhammassavanaṃ etaṃ maṅgalamuttamaṃ .

8- Khantī ca sovacassatā samanānañca dassanaṃ kālena dhammasākacchā etaṃ maṅgalamuttamaṃ .

9- Tapo ca brahmacariyañca ariyasaccāna dassanaṃ nibbānasacchikiriyā ca etaṃ maṅgalamuttamaṃ .

10- Phuṭṭhassa lokadhammehi cittaṃ yassanakampati asokaṃ virajaṃ khemaṃ etaṃ maṅgalamuttamaṃ .

Etādisāni katvāna sabbatthamaparājitā sabbattha sotthiṃ gacchanti tantesaṃ maṅgalamuttamanti.

HẠNH PHÚC KINH

Ta (là A nan Ðà) có nghe như vầy:

Một thuở nọ Ðức Thế Tôn ngự tại Kỳ Viên tịnh xá của trưởng giả Cấp Cô Ðộc, gần thành Xá Vệ (Sāvatthī)

Khi ấy, có vị Trời chiếu hào quang xinh đẹp, làm cho trọn cả Kỳ Viên sáng ngời rực rỡ, vị Trời ấy đến nơi Phật ngự, đảnh lễ đức Thế Tôn xong rồi, đứng tại chỗ nên đứng.

Khi đã đứng yên, vị Trời ấy bèn bạch với đức Thế Tôn, bằng lời kệ rằng:

Tất cả chư Thiên cùng nhơn loại, đều cầu xin được những hạnh phúc và cố tìm xét những điều hạnh phúc. Bạch đức Thế Tôn, xin Ngài mở lòng bác ái, giảng giải về những hạnh phúc cao thượng.

Ðức Thế Tôn tùy lời hỏi mà giảng rằng:

1)
Một: tư cách không xu hướng theo kẻ dữ;
Hai: tư cách thân cận các bậc trí tuệ;
Ba: tư cách cúng dường các bậc nên cúng dường.
Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

2)
Một: tư cách ở trong nước nên ở.
Hai: tư cách của người đã làm được việc lành đểdành khi trước.
Ba: nết hạnh giữ mình theo lẽ chánh.
Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

3)
Một:nết hạnh của người được nghe nhiều, học rộng,
Hai: sự suốt thông phận sự của người xuất gia và tại gia,
Ba: điều học mà người đã thọ trì được chính chắn,
Bốn: lời mà người nói ra được ngay thật,
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

4)
Một: nết hạnh phụng sự Mẹ.
Hai: nết hạnh phụng sự Cha,
Ba: sự tiếp độ vợ con,
Bốn: những nghề chẳng lẫn lộn nghiệp dữ.
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

5)
Một: nết hạnh bố thí.
Hai: nết hạnh ở theo Phật pháp.
Ba: sự tiếp độ quyến thuộc,
Bốn: những nghề vô tội,
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng,

6)
Một: nết hạnh ghê sợ và tránh xa tội lỗi,
Hai: sự thu thúc để tránh khỏi sự uống rượu
Ba: sự không dể duôi Phật pháp.
Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

7)
Một: sự tôn kính bậc nên tôn kính,
Hai: nết hạnh khiêm nhường,
Ba: tri túc đến của đã có,
Bốn: nết hạnh biết ơn người,
Năm: nết hạnh tùy thời nghe pháp,
Cả năm điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

8)
Một: sự nhịn nhục,
Hai: nết hạnh người dễ dạy,
Ba: nết hạnh được thấy các bậc Sa môn,
Bốn: nết hạnh biện luận về Phật pháp,
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

9)
Một: sự cố gắng đoạn tuyệt điều ác,
Hai: nết hạnh hành theo pháp cao thượng,
Ba: nết hạnh thấy các pháp diệu đế,
Bốn: nết hạnh làm cho thấu rõ Niết Bàn.
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

10)
Một: tâm không xao động vì pháp thế gian,
Hai: không có sự uất ức,
Ba: dứt khỏi tình dục,
Bốn: lòng tự tại,
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

Tất cả chư Thiên và nhân loại, nếu được thật hành theo những điều hạnh phúc như thế, là người thắng quá trong mọi nơi, thì hằng được hạnh phúc trong mọi nơi. Chư Thiên này! Các người nên tin rằng cả ba mươi tám điều hạnh phúc ấy là hạnh phúc cao thượng.

RATANASUTTĀRAMBHO

Paṇidhānato paṭṭhāya tathāgatassa dasa pāramiyo dasa upapāramiyo dasa paramatthapāramiyo pañca mahāpariccāge tisso cariyā pacchimabbhave gabbhāvakantiṃ jātiṃ abhinikkhamanaṃ padhānacariyaṃ bodhipallaṅke māravijayaṃ sab- baññutaññāṇappativedhaṃ nava lokuttaradhammeti sabbe pime Buddhaguṇe āvajjitvā vesāliyā tīsu pākārantaresu tiyāmarattiṃ parittaṃ karonto āyasmā ānandatthero viya kāruññacittaṃ upaṭ-ṭhapetvā

Koṭisatasahassesu
cakkavāơesu devatā
yassānam-patigganhanti
yañca Vesāliyaṃ pure
rogāmanussadubbhikkha
sambhū taṃ tividhaṃ bhayaṃ
khippamantaradhāpesi
parittan tam bhaṇāmahe.

TỤNG BỐ CÁO KINH TAM BẢO

Chúng ta nên đem lòng từ thiện, đối với tất cả chúng sanh như đại đức A Nan Ða, đã suy tưởng đều đủ các công đức của Phật, từ khi mới phát nguyện thành bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác là:

- Tu 10 pháp Pāramī
- 10 pháp Upapāramī,
- 10 pháp Paramatthapāramī.
- Năm pháp đại thí.
- Ba pháp hành.
- Tư cách giáng sanh vào lòng mẹ trong kiếp chót.
- Tư cách ra đời,
- Tư cách xuất gia,
- Tư cách tu khổ hạnh,
- Tư cách cảm thắng Ma vương,
- Tư cách chứng quả Chánh Biến Tri trên Bồ đoàn.
- Chín pháp Thánh,

Suy tưởng xong rồi, Ðại đức A Nan Ða tụng kinh Pāritta cả đêm, trọn đủ ba canh tại trong ba vòng thành Vesālī. Tất cả chư thiên trong mười muôn triệu thế giới Ta bà, đều được thọ lãnh oai lực kinh Pāritta. Kinh Pāritta đã làm cho ba điều kinh sợ phát sanh, là bệnh tật, phi nhơn và sự đói khát trong thành Vesālī được mau tiêu diệt.

Chư Thiên này, nay chúng tôi tụng kinh Pāritta ấy.

RATANASUTTA

1. Yānīdha phū tāni samāgatāni
Bhummāni vāyāni va antalikkhe.
Sabbe va phū tā sumanā bhavantu
Atho' pi sakkaccasunantu - bhāsitaṃ .

2. Tasmā hi phū tā nisāmetha sabbe
Mettaṃ karotha mānusiyā pājāya
Divā ca ratto ca haranti ye baliṃ.
Tasmā hi ne rakkhatha appamattā.

3. Yaṃ kiñci vittaṃ idha vā huraṃ vā
Saggesu vā yaṃ ratanaṃ paṇītaṃ
Nano samaṃ atthi tathāgatena.
Idampi Buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu.

4. Khayaṃ virāgaṃ amataṃ pāṇītaṃ
Yadajjagā sakyamunī sāmāhito
Na tena dhammena samatthikiñci.
Idampi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.

5. Yam buddhaseṭṭho parivaṇṇayī suciṃ
samādhimānantarikaññamāhu.
Samādhinā tena samo na vijjati.
Idampi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hontu.

6. Ye puggalā aṭṭhasataṃ pasatthā
Cattāri etāni yugāni honti
Te dakkhiṇeyyā sugatassa sāvakā.
Etesu dinnāni mahapphalāni.
Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.

7. Ye suppayuttā manasā daḷhena
Nikkāmino gotamasāsanamhi
Te pattipattā amataṃ vigayha
Laddhā mudhā nibbutiṃ bhuñjamānā.
Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.

8. Yathindakhīlo paṭhaviṃsito siyā
Catū bhi vātebhi asampakampiyo.
Tathū pamaṃ sappurisaṃ vadāmi
Yo ariyasaccāni avecca passati.
Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.

9. Ye ariyasaccāni vibhāvayanti
Gambhīrapaññena sudesitāni
Kiñcāpite honti bhusappamattā
Na te bhavaṃ aṭṭhamamādiyanti.
Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hontu.

10. Sahāvassa dassanasampadāya
Tayassu dhammā jahitā bhavanti
Sakkāyadiṭṭhi vicikicchitañ ca
Sīlabbataṃ vāpi yadatthikiñci.
Catū hapāyehi ca vippamutto
Cha cābhitṭhānāni abhabbo kātuṃ.
Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthihotu.

11. Kiñcāpi so kammaṃ karoti pāpakaṃ
Kāyena vācā yudacetasāvā
Abhabbo so tassa paṭicchadāya.
Abhabbatā diṭṭhapadassa vuttā.
Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccea suvatthi hotu.

12. Vanappagumbe yathā phussitagge
Gimhānamāse paṭhamasmiṃ gimhe.
Tathū panaṃ dhammavaraṃ adesayi
Nibbānagāmiṃ paramaṃ hitāya.
Idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.

13. Varo varaññū varado varāharo
Anuttaro dhammavaraṃ adesayi.
Idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.

14. Khīṇaṃ purāṇaṃ navaṃ natthi sambhavaṃ .
Virattacittāyatike bhavasmiṃ
Te khīṇabījā aviruơhichandā.
Nibbanti dhīrā yathā yampadīpo.
Idampi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.

15. Yānīdha phū tāni samāgatāni
Bhummāni vā yāni va antalikkhe
Tathāgataṃ devamanussapū jitaṃ
Buddhaṃ namassāma suvatthi hotu.

16. Yānīdha bhū tāni samāgātāni
Bhummāni vā yāni va antalikkhe
Tathāgataṃ devamanussapū jitaṃ
Dhammaṃ namassāma suvatthi hotu.

17. Yānīdha phū tāni samāgatāni
Bhummāni vāyāni va antalikkhe
Tathāgataṃ devamanussapū jitaṃ
Saṅghaṃ namassāma suvatthi hotu.

KINH TAM BẢO

1. Hạng Phú Tá (Bhuta) là Chư Thiên, ngự trên địa cầu, hoặc hạng Phú Tá nào là Chư Thiên ngự trên hư không thế giới, mà đến hội họp nơi đây.

Cầu xin tất cả Chư Phú Tá ấy, mở lòng từ thiện, và đem lòng thành kính, mà nghe Phật ngôn.

2. Tất cả Chư Phú Tá được nghe Kinh Ba Rít Tá rồi, nên mở lòng bác ái, đối với chúng sanh, thuộc về nhơn loại, là những người hằng đem của bố thí, đêm ngày không dứt.

3. Vì đó, các Ngài chẳng nên lãnh đạm, cầu xin hộ trì những người ấy. Tài sản trong thế gian này, hoặc trong thế giới khác hoặc trân châu quý trọng trên thiên thượng. Cả tài sản và trân châu ấy, cũng chẳng sánh bằng Ðức Như Lai.

Ðức Phật này như trân châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

4. Ðức Giáo chủ Sakya Muni là bậc thanh tịnh, đại ngộ các pháp diệt trừ phiền não, dứt khỏi tình dục, là pháp bất diệt, là pháp cao thượng. Chẳng có vật chi sánh bằng pháp ấy.

Ðức Pháp này như trân châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

5. Ðức Phật cao thượng hằng khen ngợi pháp Thiền định (Samãdhi) là pháp trong sạch.

Các bậc Trí Tuệ, đã giảng giải về Pháp Chánh định, là pháp sanh quả theo thứ tự, Thiền định khác, chẳng thể sánh bằng.

Ðức Pháp này như trân châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

6. Những hạng tu hành có 8 bậc, mà các Thiện trí thức (Sappurisa) đã ngợi khen, các bậc ấy, đều là Thinh Văn, đệ tử của Ðức Su Ga Tô các Ngài đáng thọ lãnh những vật thí của người tin lý nhân quả đem đến dâng cúng.

Những sự bố thí đến các bậc Ðắc-khí-nây-dá-búc-gá-la (Dakkhineyyapuggalā) là việc bố thí được kết quả rất nhiều hạnh phúc.

Ðức Tăng này như trân châu quí báu cao thượng.

Tôi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

7. Các bậc Thánh nhơn, trong giáo pháp của đức Chánh Biến Tri hiệu GOTAMA, đã hành theo lễ chánh rồi có lòng bền chắc chẳng còn ái dục.

Các bậc Thánh nhơn ấy, đã chứng quả A La Hán, đã nhập Niết Bàn, đã tắt lửa phiền não, và đã hưởng đạo quả rồi.

Ðức Tăng này như trân châu quí báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.

8. Cột cừ đã đóng cứng dưới đất, dầu gió bốn phương cũng không lay động thế nào.

Người hay suy xét, thấy các pháp diệu đế Như Lai gọi người ấy là bậc thiện trí thức, hạng không tham nhiễm các pháp thế gian. Ví như cột cừ kia vậy.

Ðức Tăng này như trân châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

9. Các bậc Thánh nhơn, thấy rõ các pháp diệu đế mà đức Như Lai, có trí tuệ thậm thâm đã giảng dạy đứng đắn. Các bậc Thánh nhơn ấy, dầu có dễ duôi, cũng chẳng thọ sanh đến kiếp thứ 8, là chẳng luân hồi, quá 7 kiếp.

Ðức Tăng này như trân châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

10. Bậc được chứng Ðạo quả Tu Ðà Hườn, thì đã dứt khỏi ba phép chướng ngại thường có là thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ.

Bậc Tu Ðà Hườn, đã thoát khỏi cả bốn đường dữ không còn phạm 6 điều ác, là năm tội đại nghịch, và cách xu hướng theo ngoại đạo.

Ðức Tăng này như trân châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

11. Nếu bậc Tu Ðà Hườn, vô tâm phạm điều tội lỗi, do thân, khẩu ý, các Ngài cũng chẳng giấu giếm.

Nết hạnh của bậc đã thấy đạo Niết Bàn, bậc không có thể giấu kín nghiệp dữ, mà đức Phật đã giảng dạy rồi.

Ðức Tăng này như trân châu quý báu cao thượng, Tôi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

12. Pháp cao thượng mà đức Chánh Biến Trí đã giảng giải, là Pháp có thể tiếp dẫn chúng sanh đến Niết Bàn, cho được sự lợi ích cao thượng. Pháp ấy, ví như cây trong rừng, sanh chồi trong đầu mùa hạ.

Ðức Phật này như trân châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

13. Ðức Chánh Biến Tri là bậc cao thượng, Ngài suốt thông pháp cao thượng, Ngài thí pháp cao thượng, Ngài đem đến pháp cao thượng.

Ngài là bậc vô thượng, đã diễn thuyết các pháp cao thượng.

Ðức Phật này như trân châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

14. Nghiệp cũ của các bậc Thánh Nhơn, đã dứt hẳn rồi, nghiệp mới cũng chẳng phát sanh.

Các bậc Thánh nhơn nào đã chán nản trong việc thọ sanh, là bậc có trí tuệ, thường được viên tịch, cũng như ngọn đèn tắt vậy.

Ðức Tăng này như trân châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật cầu được phát sanh thạnh lợi.

15. Hạng Phú Tá nào là chư Thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Phú Tá nào là chư Thiên ngự trên hư không, mà đến hội họp nơi đây, xin đồng cùng chúng tôi làm lễ Chư Phật, là các đấng Giáo chủ, đã được chứng quả giống nhau, mà chư Thiên cùng nhân loại, thường hay cúng dường, cầu xin được phát sanh thạnh lợi.

16. Hạng Phú Tá nào là chư Thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Phú Tá nào là chư Thiên ngự trên hư không, mà đến hội họp nơi đây, xin đồng cùng chúng tôi làm lễ các Pháp, đã có giống nhau, mà chư Thiên cùng nhơn loại thường hay cúng dường, cầu xin được phát sanh thạnh lợi.

17. Hạng Phú Tá nào là chư Thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Phú Tá nào là chư Thiên ngự trên hư không, mà đến hội họp nơi đây, xin đồng cùng chúng tôi làm lễ chư Tăng, đã có giống nhau, mà chư Thiên cùng nhân loại thường hay cúng dường, cầu xin đuợc phát sanh thạnh lợi.

BUDDHAJAYAMANGALAGĀTHĀ - KINH TÁM KỆ NGÔN

1.- Bāhuṃ sahassa mabhinimmitasāvu-dhantaṃ grīmekhalaṃ uditaghorasa-senamāraṃ dānādidhammavidhinā jitavā munindo taṃ tejasā bhavatu te jaya-maṅgalāni.

2.- Mārātireka mabhiyujjhita sabbarattiṃ gherampanāḷavaka-makkhamathad-dhayakkhaṃ khantīsudantavidhinā jitavā munindo taṃ tejasā bhavatu te jaya-maṅgalāni.

3.- Nāḷāgiriṃ gajavaraṃ atimatta-phū taṃ dāvaggicakkamasanīva sudāruṇantaṃ mettaṃ busekavidhinā jitavā munindo taṃ tejasā bhavatute jayamaṅgalāni.

4.- Ukkhittakhaggamatihattha sudā-runantaṃ dhāvantiyo janapathaṅgulimāla-vantaṃ iddhīhisaṅkhatamano jitavā munindo taṃ tejasā bhavatu te jaya maṅgalāni.

5.- Katvāna kaṭṭhamudaraṃ iva gab-bhiniyā ciñcāya duṭṭha vacanaṃ jana-kāyamajjhesantena somavidhinā jitavā munindo taṃ tejasā bhavatu te jaya-maṅgalāni.

6.- Saccaṃ vihāya matisaccaka vā-daketuṃ vādābhiropitamanaṃ atiandha-phū taṃ paññāpadī-pajalito jitavā munindo taṃ tejasā bhavatu te jayamaṅgalāni.

7.- Nandopananda bhujagaṃ vibud-dhaṃ mahiddhiṃ puttena therabhujagena damāpayanto iddhū padesa-vidhinā jitavā munindo taṃ tejasā bhavatu te jaya-maṅgalāni.

8.- Duggāhadiṭṭhibhujagena sudaṭṭhahatthaṃ brahmaṃ visuddhi-jutimiddhi Bakābhidhānaṃ ñāṇāgadena vidhinā jitavā munindo taṃ tejasā bhavatu te jaya-maṅgalāni.

Etāpi buddha jayamaṇgala aṭṭhagāthā yo vācano dinadine sarate matandī hitvā nanekavividhāni cupaddavāni mokkhaṃ sukhaṃ adhigameyyā naro sapañño.

VỀ SỰ CẢM THẮNG VÀ SỰ LÀNH CỦA ÐỨC PHẬT

1 - Ðức Phật cao thượng hơn các bậc trí tuệ, ngài đã cảm thắng Ma Vương, Ma Vương biến ngàn cánh tay đều cầm khí giới; cỡi voi Gri-mê-khá-lá đủ cả binh ma, tiếng hét la vang rền. Nhờ Phép Thập độ, nhất là Phép Bố thí mà đức Phật cảm thắng được Ma Vương.

Do nhờ Phật lực này, xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.

2 - Ðức Phật đã cảm thắng được Dạ Xoa A-la-quá-cá rất cang ngạnh, không lòng nhẫn nhục, khoe tài trọn đêm cùng đức Phật. Dạ Xoa rất hung ác, cảm dõng hơn Ma Vương đã bị Ðức Chánh Biến Tri dùng Phép Nhẫn nhục thâu phục rồi.

Do nhờ Phật lực này, xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.

3 - Ðức Phật đã cảm thắng voi Na-la-gi-ri đến cơn hung ác, dữ tợn như lửa rừng, như sấm sét, nhờ rải lòng Từ bi mà Ðức Chánh Biến Tri đã cảm thắng được voi ấy.

Do nhờ Phật lực này, xin cho hạnh phúc phát sanh đến người.

4 - Ðức Phật dùng Phép Thần thông cảm thắng Ăn-gú-lí-má-lá, kẻ cướp sát nhân, cắt ngón tay người xỏ làm tràng hoa, kẻ quá hung bạo, nhưng rất tinh nhuệ, cầm gươm rượt Ðức Chánh Biến Tri xa ba do tuần.

Do nhờ Phật lực này xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.

5 - Ðức Phật đã khử trừ lời dữ của nàng Chinh Cha, nàng dùng cây tròn giống dạng dứa bé trong thai, giả làm phụ nữ mang thai. Nhờ dùng Phép Chánh định mà đức Chánh Biến Tri cảm thắng nàng giữa chốn đông người.

Do nhờ Phật lực này, xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.

6 - Ðức Phật sáng suốt nhờ ngọn đèn tuệ, Ngài đã cảm thắng kẻ ngoại đạo Sách-chá-cá là kẻ không ngay thật, chỉ ưa thích sự nâng cao lời nói mình như người dựng cột phū ớng, kẻ rất si mê, chẳng khác người mù.

Do nhờ Phật lực này, xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.

7 - Ðức Phật dạy Ðại đức Mục Kiền Liên biến làm Long Vương để thâu phục rồng chúa Nan-đô-bá-nanh-đa, là rồng tà kiến có nhiều thần thông. Nhờ dạy Ðại đức Mục Kiền Liên mà Ðức Chánh Biến Tri thâu phục được rồng chúa ấy.

Do nhờ Phật lực này, xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.

8 - Ðức Phật đã cảm thắng Ðại-Phạm-Thiên Bá-ká tự cho mình là cao thượng vì đức trong sạch, có thần thông và chấp hẳn tà kiến. Nhờ Giác tuệ mà Ðức Chánh Biến Tri đã cảm thắng được Ðại Phạm Thiên ấy.

Do nhờ Phật lực này, xin cho sự hạnh phúc phát sanh đến người.

Những người có trí tuệ, không biếng nhác thường ngày hằng tụng hoặc niệm tám kệ ngôn tán dương oai lực của Ðức Chánh Biến Tri thì sẽ tránh khỏi vô số nạn tai và sẽ chứng quả Niết Bàn là nơi yên vui độc nhất.
/11
 

  Ý kiến bạn đọc

Mã bảo mật   

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây