Tìm Kinh Sách
 
        Kinh Sách FULL

Kinh Nhật Tụng Cư Sĩ

HỆ PHÁI NAM TÔNG - THERAVĀDA

KINH NHẬT TỤNG CỦA CƯ SĨ
TỲ KHEO TĂNG-ÐỊNH HỢP SOẠN
PL. 2539 - TL. 1995


MỤC LỤC
Phần [01]

I. LỄ BÁI TAM BẢO

- Thỉnh Chư thiên
- Lễ bái Xá lợi Phật

Phần [02]

II. LUẬT CƯ SĨ TÓM TẮT

- Quy y Tam Bảo và Thọ Giới
- Giải Luật Cư Sĩ Ðại cương

Phần [03]

III. CẦU AN VÀ CẦU SIÊU

A) KINH CẦU AN

Thỉnh Pháp sư
Hồi hướng sau khi thính pháp
Kệ Ân đức Phụ Mẫu
Bài tụng đêm Sám hối
Rải Tâm Bác ái
Hồi hướng Phước (Phước căn...)
Kệ Vô thường, Khổ não, Vô ngã
Hạnh Phúc Kinh
Kinh Tam Bảo (YĀNĪDHA)
Tám Kệ Ngôn

Phần [04]

Kinh GIRIMĀNANDA
Kệ Phật cảm thắng Ma vương (Rằm tháng Giêng)
Kệ Phật nhập Niết Bàn
(Rằm tháng Tư)
Kệ tiểu sử Phật Thích Ca

Phần [05]

Kinh Từ bi
Sưu tập các bài kệ

B) KINH CẦU SIÊU

- Các bài Kệ Ðộng Tâm
- Chúc người mới Qui y
- Hồi hướng phước đến Chư Thiên
- Năm điều Quán tưởng
- Kệ tụng khi nhiễu Phật trong lễ Dâng Y

Phần [06]

IV. NGHI THỨC VÀ LỄ GIÁO

- Nghi thức các buổi lễ
- Lễ giáo của Phật tử

-ooOoo-

Lời Tựa

Thời gian gần đây, số kinh sách không đủ đáp ứng nhu cầu của Phật tử, nhất là giới Phật tử tại gia cần có một quyển kinh đọc tụng hằng ngày.

Nhận thấy quyển "Nhựt Hành của người tại gia tu Phật" do Ngài Hòa Thượng HỘ TÔNG, soạn và quyển "Nhật Hành của cư sĩ" do Hòa Thượng PHÁP TRI tái bản tương đối đầy đủ để Phật tử tham gia trong các khóa lễ tụng đọc và thực hành hằng ngày.

Ðáp lại lòng mong mỏi của chư Phật tử, chúng tôi mạn phép đúc kết lại thành một quyển "Kinh Nhật Tụng của cư sĩ".

Kính dâng phần phước pháp thí đến Hòa Thượng Hộ Tông và các vị cao Tăng đã dầy công soạn dịch quyển kinh này.

Ước mong Phật pháp được trường tồn, hưng thạnh đến năm ngàn năm.

Ðại đức TĂNG ÐỊNH
Ủy viên Ban Nghi Lễ Trung ương, GHPGVN
Trụ trì KỲ VIÊN TỰ, Quận 3, Tp Hồ Chí Minh

Source: BuddhaSasana

Chương 10: NGHI THỨC VÀ LỄ GIÁO CỦA PHẬT TỬ TẠI GIA

IV - NGHI THỨC VÀ LỄ GIÁO CỦA PHẬT TỬ TẠI GIA
(Gihī Pūjāsikkhāpadavidhī)
Tỳ Kheo DŨNG CHÍ

NGHI THỨC VÀ LỄ GIÁO CỦA PHẬT TỬ TẠI GIA

Trong gia đình, người con phải chu toàn bổn phận, phải cư xử với mọi người nhất là những bậc sinh thành, như cha mẹ, thế nào cho đúng cách của một người con lễ giáo. Trong xã hội một người công dân tốt phải hành xử sao cho vẹn toàn mọi bổn phận trung quân ái quốc. Trong mọi lãnh vực chúng ta đều phải theo đúng qui tắc, khuôn thước lễ giáo riêng, để hành theo cho thành một người trọn vẹn. Xét về lãnh vực tôn giáo, thì vấn đề lễ nghi đối với Phật tử chân chính rất quan trọng, nếu người Phật tử biết tôn kính chư Tăng, xử sự cho hợp lẽ đạo đúng nghi thức, lúc nào cũng vâng lời và giữ đúng cương vị của mình thì mục đích cao thượng mới đoạt thành. Mặt khác vui thích trong việc học đạo, làm phước và dẫn dắt mọi người để có cùng chung một lý tưởng, có thế trí tuệ ta mới phát sinh và mới có thế giữ vững mức quân bình giữa cuộc sống tinh thần và vật chất hiện tại.

Nói về nghi thức trong các buổi lễ dành riêng cho tín đồ, ta nhận thấy hầu hết các tôn giáo nhỏ lớn đều có. Nhưng khác hẳn các tôn giáo ấy, đạo Phật có những nghi lễ thường thức rất giản dị, bởi theo kim chỉ nam của đạo thì càng giản dị càng tốt. Ðạo Phật không quan trọng hóa tha lực mà tin tưởng ở tự lực, chỉ có tự lực mới tìm ra chơn lý. Sở dĩ có một số nghi thức giản dị là vì để đáp ứng cho tinh thần vị tha của người Phật tử, mà không ngoài chính tín và bất vụ lợi. Chúng tôi xin tuần tự trình bày một cách khiêm tốn những phần nghi thức và lễ giáo sau đây

I. PHẦN NGHI THỨC

NGHI LỄ QUY Y

Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền và bất cứ ngày giờ nào không nhất định, lúc nào chúng ta muốn nương theo Tam Bảo, vui thích và trong sạch để được trở thành một người Phật tử chơn chánh. Trước hết chúng ta cung thỉnh một vị sư hay chư Tăng đến dưới chân Phật đài, xin thọ phép quy y Phật, Pháp, Tăng. Khi đối diện chư Tăng người quy y phải đọc bài quy y: "Bạch hóa chư Ðại Ðức Tăng tôi là người thiểu trí lầm lạc...", kế đó vị sư hướng dẫn người quy y học theo câu lễ Phật, rồi tuần tự đọc lời nguyện quy y Tam Bảo "Tôi đem hết lòng thành kính xin quy y Phật...". Sau khi đã thọ phép quy y xong rồi, vị sư đại diện cho Tăng Bảo sẽ hướng dẫn người quy y tụng theo lời thệ nguyện thọ trì ngũ giới.

Cuối cùng vị sư giảng giải sự lợi ích của sự nghiêm trì giới luật cũng như khuyến khích Phật tử nên duy trì cho được trong sạch, vì khi đã quy y thọ giới rồi là chúng ta đã trở nên một người Thiện nam hoặc Tín nữ tức là con hoặc đệ tử Phật, thì giới luật phải chấp nhận và nghiêm trì suốt đời, khi đã giảng về sự lợi ích của giới luật xong, vị sư tụng bài kinh phúc chúc cho tân đệ tử được dồi dào sức khỏe, tu hành tinh tấn. Sau đó Phật tử đọc lên bài hồi hướng phước báu phát sinh do lòng trong sạch của mình đến chúng sanh.

Nói đến một người Phật tử đúng nghĩa trong Phật giáo, là người phải được quy y và thọ giới trước Phật đài có chư Tăng chơn chánh chứng minh. Vì đạo Phật quan niệm giới luật đóng vai một vai trò rất quan trọng, cũng như lời răn dạy của cha mẹ trong gia đình vậy. Trong Phật giáo, ngoài những giới luật mà chư Tăng phải nghiêm trì, Ðức Phật còn lưu ý đến hàng tại gia cư sĩ, cần có giới luật để duy trì và nhớ rằng mình đã quy y Tam Bảo nên tuyệt đối thi hành giới cấm, khi có sự sân hận, lòng muốn giết hại chúng sanh, thì giới luật là giáo điều ngăn trở không cho chúng ta vi phạm, được vậy tam quy mới bảo đảm và duy trì.

NGHI THỨC LỄ BÁI TAM BẢO

Lễ bái Tam Bảo là một nghi thức công phu sáng chiều ở tại chùa chiền, tư gia và những nơi công cộng trong các buổi lễ Phật giáo. Dưới chân Phật tổ hay trên lễ đài phải được trang hoàng theo nghi thức Phật giáo chơn truyền, nghĩa là ta chỉ tôn thờ duy nhất một tượng Phật tổ Thích Ca Mâu Ni. Những vật cúng dường được bày trước tượng ảnh Phật tổ là hương, đèn và bông hoa, ngoài ra chúng ta không nên dâng những vật thực để cúng dường.

Trở lại vấn đề lễ bái, trước hết chúng ta đảnh lễ 3 lần, rồi bắt đầu tụng những bài kinh được phổ thông áp dụng như sau:

- Bài kinh dâng hoa cúng Phật (Phạn, nghĩa).
- Lễ Phật (đọc 3 lần).
- Lễ bái Ân Ðức Phật, Ân Ðức Pháp, Ân Ðức Tăng (Phạn, nghĩa).
- Rải tâm từ bi
- Hồi hướng phước báu đến tất cả chúng sanh.

Trên đây là nghi thức giản tiện nhất được phổ thông áp dụng khắp thế giới theo Phật giáo Nam Tông và rất đúng theo chánh pháp.

NGHI LỄ THỌ NGŨ GIỚI, BÁT QUAN TRAI GIỚI

Nghi thức thọ giới của người cư sĩ chia làm hai phần:

a) Nghi thức được chưng bày cho người Phật tử xin thọ trì ngũ giới, sự trang hoàng và lễ vật rất giản dị, Phật tử khi thọ giới có vài điều kiện nhu:

- Hết lòng thành kính Tam Bảo.
- Tùy khả năng, mua sắm chút ít hương, hoa đến chùa cúng dường Ðức Phật.
- Thành kính cung thỉnh chư Tăng đến trước Phật đài.

Ngũ giới người Phật tử có thể thọ bất cứ lúc nào cũng được. Song theo thói thường thì lễ thọ ngũ giới được bắt đầu vào trước mọi cuộc lễ, những cuộc lễ ấy như: lễ cầu an, cầu siêu, trai Tăng, thuyết pháp v.v... Bởi theo Phật giáo người Phật tử trước khi làm việc gì phải nghĩ tới giới hạnh của mình, vì vậy mà người Phật tử xin thọ trì giới hạnh cho trong sạch khi bắt tay vào việc, để hòa điệu với thời gian công tác phước thiện.

Người thọ giới cũng có thể cung thỉnh chư Tăng về tư gia hành lễ. Phật tử khi thọ trì ngũ giới nên đọc bài cung thỉnh chư Tăng truyền giới: "Bạch hóa Chư Ðại Ðức Tăng, chúng con xin thọ trì Tam quy và Ngũ giới....". Ðiều cần yếu là họ phải thật tâm thệ nguyện trước Tam Bảo có chư Tăng chứng minh, dù bất cứ hoàn cảnh nào, hay gặp những biến cố tai hại đến đâu cũng nguyện một lòng trung thành với lời nguyện.

b) Nghi thức thọ trì Bát quan trai giới cũng tương tự như trên, Bát quan trai giới có hai lối thọ trì:

- Phật tử nguyện thọ trì Bát quan trai kỳ một tháng 8 ngày.
- Nguyện thọ bát quan trường, tức suốt đời gìn giữ Bát quan trai hay còn gọi là trường trai.

Ðến ngày giới người Phật tử khi thọ trì phải đọc bài xin thọ Bát quan trai giới: "Bạch hóa chư Ðại Ðức Tăng, chúng con xin thọ trì Tam quy và Bát quan trai giới...." Có điều bất cứ nghi lễ nào, không chỉ lễ thọ giới, bao giờ cũng dành nơi danh dự cao ráo cho chư Tăng an tọa, vì chư Tăng là một trong ngôi Tam Bảo, chúng ta cần phải tôn kính.

NGHI THỨC THỜ PHƯỢNG TẠI GIA

Ngày xưa người Việt Nam ta tin tưởng rằng hình tượng Phật mà họ thờ phượng đều có quyền năng ban bố phước lành, hành phạt con người. Vì thế ông cha ta không dám cho thờ phượng hình ảnh Phật tại tư gia, cho rằng nhà thế tục thường có bệnh hoạn, ô uế, e có tội với đấng thiêng liêng.

Nhưng ngày nay khi Phật tử học hỏi giáo lý cao siêu của nhà Phật được chu đáo và sâu rộng, nên ta đã hiểu rõ thế nào là tội phước. Riêng sự thờ phū ợng tại gia không có gì là trở ngại cả. Hình tượng chỉ là những vật vô tri vô giác, không có gì gọi là linh thiêng đáng sợ. Song, có sợ chăng là ở chổ kim ngôn quí báu của Ngài được tôn kính đúng đắn hay không. Ta là Phật tử con của Phật, tại tư gia có tôn thờ hình ảnh Ngài là để những khi trong gia đình có chuyện gì, hay lo sợ, ngước lên bàn thờ, ta nhìn thấy gương mặt từ bi của Ðức Phật thì sự lo đó cũng bớt đi phần nào, cũng như những lúc ta cảm thấy có gì hơi lỗi đạo, nói năng cộc cằn, chửi rủa nhau hay đánh đập, âm mưu hãm hại kẻ khác là điều không xứng đáng đối với người con Phật. Hằng ngày khi ra vào ta nhìn thấy gương mặt từ bi vô lượng của Chí Tôn, ta cũng cảm thấy biết hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi, ta sẽ không dám hành động những điều sai trái với lương tâm.

Cách thờ phượng thì ta nên thiết lập bàn thờ Phật ngay giữa nhà, nơi danh dự và trịnh trọng nhất, nơi ấy cũng phải cao ráo hơn các bàn thờ tổ tiên. Trên bàn thờ chỉ được tôn thờ một vị Thích Ca mà thôi, trước là một lư hương, bên cạnh là một bình hoa, cùng hai chưn đèn nến là đủ. Nên lưu ý theo truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy không chấp nhận dùng chuông mõ, vì vậy không cần thiết phải sắm những vật không hợp lệ này.

LỄ SÁM HỐI LỆ

Theo nghi thức Phật giáo Nam Tông thì mỗi tháng có hai kỳ Sám hối, đó là ngày 14 và 30, nếu tháng thiếu thì 14 và 29. Ðây là một trong các phương pháp Sám hối, nó có tác dụng nhắc nhở cho chư Phật tử biết rõ điều nào là tội lỗi, điều nào nên tránh, điều nào nên làm, và như thế nào để gìn giữ thân khẩu ý cho trong sạch.

Lệ đọc lên bài Sám hối vào những ngày nhất đinh như đã ghi ngày 14, 29 hay 30, thì chỉ có ở Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam mà thôi, chứ các nước Nam tông khác thì không có lễ này. Phật tử thay vào đó những ngày giới Bát quan, những ngày bát giới rất quan trọng đối với các hàng tín đồ Phật giáo thế giới. Phật tử vào những ngày ấy thường mang vật thực đến chùa, làm lễ trai Tăng và sống suốt thời gian nghiêm trì bát giới 24 tiếng đồng hồ tại chùa.

Như vậy, nghi lễ sám hối ta có sai chơn truyền chánh pháp hay không? Xin thưa là hoàn toàn không sai, có lẽ quí Ngài truyền giáo nghĩ rằng trong những ngày trên là ngày sám hối và làm lễ Phát lồ của chư Tăng có trong kinh Luật. Thế thì thiết tưởng ngày sám hối, để Phật tử tại gia có dịp chính mình thốt lên bằng khẩu trước Phật đài lời sám hối tội lỗi. Cũng nhờ cơ hội như thế để Phật tử tập họp đến chùa nghe kinh thính pháp hầu sớm lãnh hội được chơn lý.

Còn vấn đề sám hối có hết tội hay không là còn tùy ở sự ăn năn hối lỗi của đương sự. Nếu chúng ta hối hận và làm lành trở lại thì đó cũng là một phương pháp giúp ta không tái phạm nữa.

Nghi thức lễ sám hối thì chẳng có chi rườm rà cả, trong những ngày kể trên, sau khi lễ Phật quí Phật tử chỉ cần đọc bài sám hối và nguyện từ nay sẽ không dể duôi để bị tái phạm những điều tội lỗi (nếu có).

NGHI LỄ THUYẾT PHÁP

Theo Phật giáo thì sự hoằng pháp độ sanh là một vấn đề tối cần cho nền đạo giáo. Có sự thuyết pháp giảng đạo thì quảng đại quần chúng mới được hấp thụ giáo lý từ bi vô lượng của nhà Phật. Nên các Giáo hội Phật giáo đã và đang đặt vấn đề phổ biến giáo lý được phổ cập khắp nơi, khuyến khích mọi người Phật tử ý thức việc thuyết pháp giảng đạo là một trong những điều trọng yếu để phổ biến và sự hiểu được phước báu của việc truyền bá Phật pháp.

Nên muốn được thông hiểu dồi dào trí tuệ, người Phật tử trước hết cần phải có sự tôn kính Pháp Bảo. Khi tổ chức thuyết pháp ta cần trang hoàng nơi pháp tọa được cao ráo, sau đó tuần tự những nghi thức chúng ta phải thực hiện như:

- Khi thỉnh Pháp sư an tọa, Phật tử đảnh lễ 3 lần.
- Ðọc bài xin thọ trì tam quy ngũ giới hay Bát quan trai giới.
- Khi Pháp sư đã truyền giới xong, chư Phật tử đọc bài cung thỉnh Pháp sư. 
- Khi Pháp sư thuyết pháp xong Phật tử đọc sám hối Phật, Pháp, Tăng, vì e thân, khẩu, ý, bất tịnh trong khi nghe pháp.
- Kế đến Pháp sư phúc chúc, sau khi xong chư Phật tử hồi hướng phước báu đến các bậc ân nhân và tất cả chúng sanh.

Trên đây là nghi thức rất giản dị, song người Phật tử cũng cần phải thông hiểu. Chúng tôi hy vọng rằng dù sao cũng giúp ích quý vị một vài ý niệm về nghi lễ truyền đạo theo nhà Phật.

NGHI LỄ NHIỄU PHẬT

"Nhiễu Phật" tiếng Sanskrit gọi là Pradaksina, trong quyển kinh Mahāvessantarajātaka hay Mahājātaka (Chương Jūjaka), Pradaksina hay nhiễu vòng, là sự tỏ lòng cung kính hay thương yêu, đi nhiễu chung quanh người hay vật ba vòng. Xưa kia có vị Bà La Môn tên là Jūjaka là người rất thương vợ, để chứng tỏ sự yêu thương đó, trước khi ông rời khỏi nhà, ông đã đi nhiễu ngôi nhà ba lần rồi mới ra đi, trong chuyến đi đến Bồ tát Vessantara để xin hai đứa con của vị Bồ tát là Krisna Pājālā đem về làm tôi tớ phụng sự bà vợ (Jū jaka VI. 521 - 4).

Do tích của vị Bà La Môn thời Ðức Thế Tôn còn tại tiền, là một mẫu chuyện điển hình cho sự tôn kính người hay vật đáng tôn kính thời xưa, cho nên về sau Phật tử Ấn Ðộ và các nước Phật giáo trên thế giới thấy việc làm có ý nghĩa nên chấp nhận và phổ biến.

Ngày nay chư Tăng và Phật tử bốn phương nhiễu Phật đi ba vòng ngôi chánh điện, điển hình như: Lễ dâng y Ca sa, lễ xuất gia, thiện nam tín nữ thường đội y, bát, tứ vật dụng đi nhiễu chung quanh chánh điện để tỏ lòng tôn kính Ðức Phật, Pháp Bảo và chư Tăng, trước khi đem vào chánh điện cúng dường, vậy chúng ta nên hiểu rõ nghi lễ nhiễu Phật chỉ là một phong tục của người Ấn Ðộ thời xưa chứ không phải theo kinh luật.

LỄ AN VỊ PHẬT

An vị Phật là một nghi thức do các hàng tín đồ xưa tổ chức là một nghi lễ rất rườm rà, lắm khi sai lệch tôn chỉ từ bi và giáo lý chơn truyền của Ðạo Phật, điển hình như: làm lễ khai nhãn, hay truyền oai lực từ tượng Phật cũ sang tượng Phật mới v.v... đây là những việc làm không cần thiết và không liên quan đến việc thực hành theo giáo lý của Ðức Phật.

Tại sao chúng ta thờ phū ợng và lễ bái Ðức Phật, trong khi Ngài không có mặt để thọ lãnh sự lễ bái đó, mà chỉ là một hình tượng vô tri vô giác. Ðứng trước pho tượng Phật người Phật tử chỉ hồi nhớ lại những đặc tánh của Ngài, chúng ta phải tri ân vì Ngài đã khám phá chơn lý và vạch ra con đường giải thoát cho chúng sanh. Do đó không có việc xem tượng Phật là một thần linh cần phải truyền oai lực.

Vậy người Phật tử muốn làm lễ an vị Phật, chỉ cần thỉnh tượng Phật về tư gia, tịnh xá, niệm Phật đường hay chùa chiền, an vị một nơi trang nghiêm và thỉnh chư Tăng chứng minh lòng thành của mình đối với Tam Bảo bằng thân, khẩu, ý, cúng dường đến chư Tăng sau khi các vị tụng kinh như: Lễ bái Tam Bảo, Phật cảm thắng ma vương... Ðó là một cách an vị Phật rất giản dị và đúng theo nghi thức Phật giáo.

LỄ DÂNG CÚNG TÀI SẢN CHÙA, ÐẤT, VẬT DỤNG

Cũng như các cuộc lễ dâng cúng như y phục, vật thực, chỗ ngụ và thuốc ngừa bệnh, chư Tăng cũng có quyền thọ nhận tài sản của chư Phật tử như: Ðất đai, chùa chiền, cốc liêu v.v...

Người Phật tử vì tin rằng Tăng là phước điền của nhân loại, thì với lòng trong sạch khi họ có bất cứ vật dụng nào mà chư Tăng thọ dụng được, và có lợi ích cho Tăng già, thì họ sẵn sàng cúng dường. Vì đó cũng là một cách dứt bỏ lòng bỏn xẻn dâng cúng tài sản đến chư Tăng. Người Phật tử tin rằng khi dứt bỏ tài sản mà mình quí mến thì sẽ giúp cho tâm dứt được lòng keo kiệt mắc dính với tài sản. Mặt khác sẽ được phước báu do công lao của họ tạo nên, hầu gặt hái được phước lành, hồi hướng đến thân nhân quyến thuộc đã quá vãng cũng như còn tại tiền được những phần phước cao quí.

Nhưng tài sản dâng cúng như cốc, liêu đến chư Tăng cũng phải làm đúng theo luật lệ nhà Phật, nghĩa là: phải đúng thước tấc bề ngang, bề dọc như luật dã quy định. Khi dâng cúng người Phật tử phải đến trước Phật đài và phải có chư Tăng chứng minh người Phật tử đọc lên bài dâng cúng và hài tên trước chư Tăng những vật mình hiến dâng cho Tam Bảo bằng Pāli hay nghĩa.

LỄ THỌ ÐẦU ÐÀ

Tiếng "Ðầu Ðà" âm từ Phạn ngữ Dhutaṅga nghĩa là: Chi pháp của người dứt phiền não. Có 13 pháp đầu đà dành cho các vị Tỳ Khưu tinh tấn hành đạo:

1- Mặc y xấu.
2- Mặc Tam y.
3- Thường xuyên đi khất thực.
4- Ði khất thực từng nhà.
5- Khi thọ thực chỉ ngồi dùng một chỗ.
6- Thọ thực trong bát.
7- Không dùng vật thực mình đã từ khước không nhận.
8- Trú ngụ trong rừng.
9- Trú ngụ gần dưới cội cây.
10- Ngụ nơi đồng trống.
11- Ngụ nơi mộ địa.
12- Ngụ nơi Tăng đã cho phép ở đầu tiên.
13- Ngăn oai nghi nằm.

Ðầu Ðà là phương pháp hành đạo dành cho chư Tỳ Khưu Tăng, là một lối tu tích cực, mục đích giúp cho thiền định có hiệu lực nhiều. Bởi càng thu thúc trong giới hạnh và đề mục thiền định, con người càng định tâm được dễ dàng. Nhưng về sau các hàng cư sĩ khi hành thiền định cũng đem một phần trong phương pháp đầu đà ấy ra áp dụng. Như thọ đầu đà ngăn oai nghi nằm, vì Phật tử tại gia cũng gặt hái được nhiều kết quả trong pháp thiền quán, nên nay đã được phổ thông áp dụng cho mọi giới Phật tử. Nhất là áp dụng vào hai ngày Ðại lễ kỷ niệm là rằm tháng Giêng và rằm tháng Tư... Trong những ngày ấy Phật tử thường tổ chức một đêm không ngủ không nằm, chỉ đi đứng và ngồi để kệ kinh, luận đạo, tham thiền hầu suy xét công đức sâu dày của Ðức Phật. Ðây cũng là phương pháp cúng dường Phật một cách cao thượng và trau dồi cho thân tâm trở nên thanh tịnh.

PHƯƠNG PHÁP THỌ ÐẦU ÐÀ

Khi đức Thế Tôn còn tại tiền, chư Tăng phải đến trực tiếp thọ Ðầu đà với Ðức Phật. Ðến khi đức Thế Tôn viên tịch, nghi thức thọ trì Ðầu đà được các đại Thinh Văn phụ trách, khi chư đại Thinh Văn không còn, lễ thọ Ðầu đà do các bậc A La Hán, A Na Hàm, Tư Ðà Hàm, Tu Ðà Huờn truyền giáo. Sau đó lễ thọ Ðầu đà do chư phàm Tăng giáo truyền đến những Phật tử nguyện thọ, Phật tử cũng có thể tự phát nguyện trước Phật đài.

Ðầu đà có ba bậc, lời nguyện thọ trì như sau:

- Bậc hạ: Tôi xin nguyện thọ trì hạnh Ðầu đà bậc hạ, ngăn oai nghi nằm (có thể dựa vào giường, ghế v.v...).

- Bậc trung: Tôi xin nguyện thọ trì hạnh Ðầu đà bậc trung, ngăn oai nghi nằm (được phép dựa).

- Bậc thượng: Tôi xin nguyện thọ trì hạnh Ðầu đà bậc thượng, ngăn oai nghi nằm (ngồi không dựa).

Ba phép này hành giả không được phép nằm trước khi mặt trời mọc, ngược lại gọi là đã phá phép Ðầu đà mà mình đã nguyện thọ trì.

LỄ DÂNG Y (KAṬHINA)

Lễ này được tổ chức một năm chỉ có một lần từ ngày 16-9 đến 15-10 âm lịch. Nếu có thí chủ phát tâm trong sạch, muốn tổ chức lễ dâng y đến chư Tăng ở chùa nào, thì phải đến bạch với vị trụ trì ấy biết. Thí chủ trở về lo sắm y và các lễ vật phụ tùng như: mùng, mền, chiếu, gối và thuốc ngừa bệnh v.v... Một buổi lễ trai Tăng và bữa cơm thân mật của chư Phật tử tùy theo khả năng của thí chủ, còn nếu gia cảnh túng thiếu thì thí chủ có thể mua một ít vải về làm lễ dâng y cũng được. Với tâm trong sạch vui thích thì phước báu cũng bằng nhau, ngoài ra chúng ta cũng có thể rủ bạn bè tổ chức lễ dâng y, thì phước báu càng tăng thêm. Ðến ngày lễ thí chủ đem lễ vật đến chùa rồi chia ra mọi người mỗi phần đội đi nhiễu Phật ba vòng. Cách nhiễu Phật thì thường thường ta cho người đội Ðại y đi trước, kế bình bát, đến y vai trái sau đến lễ vật phụ tùng, nếu không còn vật chi chúng ta có thể cầm nhang, hoa xếp thành hàng đi nhiễu Phật ba vòng chung quanh chánh điện, giữ tâm vui thích với phước báu mà mình đang làm, và vừa đi vừa đọc bài kệ dâng y Ca-sa (Bài kệ đã được phỏng theo Phật ngôn và phổ biến rộng rãi trong giới Phật tử Nam Tông). Sau đó đem y và các vật phụ tùng vào chánh điện, thỉnh chư Tăng và xin thọ tam quy, ngũ giới, xong rồi đọc bài dâng y như sau:

"Mayaṃ bhante imaṃ kaṭhina dussaṃ sapparikkhāraṃ bhikkhu saṅghassa dema amhākaṃ dīgharattaṃ atthāya hitāya sukhāya. Dutiyampi..., Tatiyampi...."

Nghĩa: "Bạch hóa chư Ðại đức Tăng chúng con xin thành kính dâng y Kathina này đến chư Ðại đức, cầu xin chư Ðại đức nhận lãnh cho chúng tôi được sự tấn hóa, sự lợi ích và sự bình an lâu dài. Lần thứ nhì, ... Lần thứ ba, ...".

Sau khi dâng cúng đúng luật lệ xong, chư Tăng hành lễ Tăng sự đứng theo luật, trước Phật đài nơi có kiết giới để thọ dụng y Ca-sa. Ðây là một cách cúng dường đúng theo luật tạng, thí chủ sẽ hưởng được nhiều phước báu.

LỄ THÀNH HÔN

Hôn lễ theo Phật giáo, thông thường trước ngày chánh lễ, Phật tử cung thỉnh chư Tăng về tư gia trai Tăng, hoặc có thể đến chùa để cử hành hôn lễ.

Hôn lễ khởi đầu Phật tử lễ bái Tam Bảo, xin thọ trì Tam quy, ngũ giới, kế đó chư Tăng tụng kinh phúc chúc, nhất là Hạnh Phúc kinh, sau đó vị Pháp sư thuyết Pháp đại ý nêu lên gương sống lý tưởng trong gia đình, nhiệm vụ chồng đối với vợ và vợ đối với chồng theo kinh điển nhà Phật.

Sự cử hành hôn lễ tại chùa có rất nhiều sự lợi ích là: Ðôi tân hôn được chiêm ngưỡng dung nhan của Ðức Phật, cung thỉnh chư Tăng đến quy y, trì giới, để thực hành phận sự của người tại gia cư sĩ đúng đắn. Khi có sự buồn phiền trong gia đình hay muốn làm tội, nhớ ngày thành hôn tại nơi tôn nghiêm và những lời dạy của chư Tăng dưới Phật đài, mà không dám vi phạm điều tội lỗi.

LỄ MA CHAY

Mỗi khi trong gia đình có người lâm chung, tang quyến cung thỉnh chư Tăng quang lâm đến tư gia hoặc đến nghĩa địa để làm lễ cầu siêu độ. Thoạt tiên chư Tăng tụng kinh lễ bái Tam Bảo, thiện tín xin thọ trì ngũ giới, kế đó tang quyến mang vải trắng đến đắp lên nhục thân người quá váng để chư Tăng tụng kinh cầu siêu, và nhận lãnh vật dụng ấy.

Sau đó chư Tăng tụng kinh thích hợp với hoàn cảnh đại ý như:

"Tất cả các vật hữu lậu đều là vô thường.
Sanh lên và diệt hoại, đó là bản chất của tất cả.
Sanh ra kiếp chúng sanh rồi, nối tiếp hành trình.
Thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi, là hạnh phúc tối thượng "...

Sau khi tụng kinh xong, vị Pháp sư thuyết pháp, ngụ ý nhấn mạnh đến tánh cách vô thường của vạn hữu. Tất cả chúng sanh, người lúc thiếu thời, người trưởng thành, cũng như lúc tuổi hạc đã cao tất cả đều phải chết, chúng sanh đều có sự chết là điểm cuối cùng.

Cuối cùng Phật tử hồi hướng phước báu đến người quá vãng như:

"Xin hồi hướng công đức này đến thân quyến tôi.
Ước mong các bậc ân nhân được thọ hưởng".

LỄ GIỖ TỔ

Giỗ tổ là phong tục tế lễ ông bà trong những ngày kỵ cơm. Hằng năm cứ đến ngày giỗ ông bà cha mẹ đã quá vãng, thì con cái trong gia đình tổ chức ngày lễ giỗ. Theo tục lệ người Việt Nam, cứ đến ngày ấy là con cháu đến nhà một người chỉ định trông nom phần hương khói để làm mâm cao cỗ đầy, đem lên bàn thờ và cùng nhau cúng vái.

Nhưng đối với Phật giáo thì Ðức Phật dạy Phật tử nên làm phước cúng dường đến chư Tăng, nhờ tạo được phước lành ấy, rồi hồi hướng đến ông bà cha mẹ, như vậy người quá váng có thể thọ nhận phần phước ấy. Nếu họ bị sa đọa thì sẽ được vơi bớt phần đau khổ ở cảnh địa ngục, bằng họ được sanh vào cõi an vui thì nhờ phần phước ấy họ sẽ được tăng thêm phần phúc huệ. Nhưng người Phật tử nên lưu ý sự hồi hướng phước báu đến người quá cố, không phải dợi đến ngày kỵ cơm, mà bất cứ ngày nào chúng ta tạo được phước lành, cũng có thể hồi hướng đến người ở bên kia thế giới. Vì Ðức Phật không cho sự tế lễ theo phong tục là có lợi, làm như thế người quá vãng chẳng được biết, nghe những điều ấy, việc làm đó chẳng qua là chúng ta tụ họp để tổ chức một buổi tiệc vui trong gia quyến. Ấy là không nói đến những buổi tiệc có sát sanh làm cỗ, rượu chè say sưa, đó là việc chẳng những vô ích đến người quá cố còn tạo thêm nhiều tội lỗi.

LỄ CẦU SIÊU ÐỘ

Buổi lễ tổ chức có thể thỉnh chư Tăng đến tư gia để tụng kinh cầu siêu cho những người quá vãng, không giới hạn thời gian. Buổi lễ cũng có thể tổ chức vào lúc Tang lễ đang tiến hành, khi quan tài của người quá vãng đang còn quàng tại tư gia, Niệm Phật đường hay chùa chiền.

Ta nên lưu ý trong những buổi lễ cầu siêu, chư Tăng sẽ tụng niệm những gì để cầu siêu cho người quá cố. Ở điểm này chúng ta nên hiểu rằng chư Tăng chỉ tụng những bài kinh như: năm điều quán tưởng, vô thường khổ não vô ngã v.v... mục đích tụng những bài kinh vừa kể là dành cho những người còn sống nghe để quán tưởng đời là vô thường, khổ não, vô ngã, chứ không phải tụng để cầu siêu cho người quá cố, người quá cố có thể siêu độ hay không là do chính họ tạo từ khi họ còn sinh tiền. Còn buổi lễ tạo phước lành để hồi hướng đến người quá cố, nhờ phần phước của tang quyến, có thể giúp người quá vãng được vơi phần nào khổ sở dưới địa ngục hay sẽ tăng thêm phần phước ở nhàn cảnh mà thôi.

LỄ CẦU AN LÀNH

Theo kinh Paritta (Paritta: nghĩa là bảo vệ, hộ trì.) gồm những bài kinh sưu tầm trong Tam tạng Pāli, là những bài kinh tụng để cầu cho người bệnh hay người gặp những nghịch cảnh. Ðây là những bài kinh đã được Ðức Phật tán thành cho các hàng Tăng chúng tụng niệm trong những dịp trên. (Dict. Pali Proper Names. G.P. Mallasekera, Vol. Ī trang 157.)

Thông thường buổi lễ được tổ chức tại tư gia hay chùa chiền. Phần nghi thức, trước hết Phật tử làm lễ Tam Bảo, xong quay trở lại đối diện chư Tăng đảnh lễ và xin thọ tam quy ngũ giới hay Bát quan trai giới (nếu là ngày giới). Ðoạn thỉnh chư Tăng tụng kinh Paritta hay cầu an. Buổi lễ diễn ra trong một giờ đồng hồ hay ít hơn, có thể tổ chức vào buổi chiều hay những giờ khác nếu thấy thuận tiện. Nếu buổi lễ tổ chức vào những buổi chiều thì Phật tử cúng dường những món giải lao như café, nước mía, mật ong v.v...

Người Phật tử tin rằng chư Tăng là các bậc nghiêm trì giới đức trong sạch, đáng cho người lễ bái cúng dường. Khi thỉnh chư Tăng đến tụng kinh cầu an và dâng tứ vật dụng đến chư Tăng, nhờ phước báu của lòng trong sạch đó, thí chủ xin cầu nguyện cho người bệnh hoạn hay cho những điều lo sợ trong gia đình đuợc tiêu tan và được an vui hạnh phúc.

ÐỂ BÁT CHƯ TĂNG

Theo Luật tạng, vị Tỳ Khưu xuất gia phải thệ nguyện trước Phật đài có chư Tăng chứng minh, là sẽ sống suốt đời bằng những món ăn đi trì bình, khất thực, tức là phải sống với Tam y bình bát, đó là tài sản duy nhất của các vị Tỳ Khưu. Chư Tăng là các bậc thừa hành theo giáo pháp từ bi của đức Thế Tôn. Về phần người Phật tử khi muốn bảo tồn Tam Bảo, thì công việc giúp ích cho chư Tăng duy trì ngôi Tam Bảo là bổn phận thiêng liêng, do đó khi chư Tăng đến nhà để trì bình, chúng ta hoan hỉ cúng dường những vật thực đến các Ngài. Nhưng điều cần ghi nhớ là những vật thực dâng cúng đó phải được nấu chín. Nếu trong nhà có dù một vá cơm hay đĩa muối với lòng trong sạch cũng có thể dâng cúng đến chư Tăng. Sự cúng dường như thế người Phật tử sẽ có nhiều phước báu, vì Tăng và giới luật còn thì Phật Pháp mới trường tồn hưng thịnh.

Nghi lễ cúng dường để bát, muốn được nhiều phước báu thì người Phật tử phải mau mắn, khi chư Tăng đến, tự mình phải đem những vật thực sẵn có đến trước vị Sư, sau khi đã bỏ giày dép, xá chào và cung kính ta từ từ để vật thực vào bát một cách nhẹ nhàng. Khi để bát xong người Phật tử lui ra và xá chào. Ðó là cách để bát cúng dường đến chư Tăng đúng đắn.

 -ooOoo-
 
 
/11
 

  Ý kiến bạn đọc

Mã bảo mật   

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây