Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo Kinh Giảng Ký
發起菩薩殊勝志樂經講記
Chủ giảng: Lão Hòa Thượng Thích Tịnh Không
Chỉnh lý: Cư sĩ Truyền Tịnh
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Nhĩ thời, Thế Tôn trùng thuyết kệ ngôn: 爾時世尊。重說偈言。 (Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nhắc lại bằng kệ như sau) Dưới đây, tổng cộng là hai mươi mốt bài kệ, đều thuộc vào phần Trùng Tụng. Chánh kinh: Kiêu ngạo ư đa văn, Chấp trước chư tránh luận, Thất niệm, bất chánh tri, Thị danh thế thoại quá. 憍傲於多聞。 執著諸諍論。 失念不正知。 是名世話過。 (Kiêu ngạo với đa văn, Chấp trước các tranh cãi, Mất niệm, không chánh tri, Gọi là lỗi thế thoại) Câu thứ nhất trùng tụng ý: “Tâm sanh kiêu mạn, chẳng kính đa văn”. Câu thứ hai trùng tụng ý: “Hay khởi lên chấp trước đối với các thứ tranh cãi”. Câu thứ ba nhắc lại lỗi thứ ba trong hai mươi lỗi đã nói ở phần trước: “Thất niệm, bất chánh tri”. Thất niệm là một loại Tùy Phiền Não. Trong Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận có nói phiền não gồm hai mươi sáu món, trong ấy, có sáu món Căn Bản Phiền Não, hai mươi món là Tùy Phiền Não. Tùy Phiền Não chia ra Đại Tùy, Trung Tùy và Tiểu Tùy. Thất Niệm là một Đại Tùy Phiền Não. Thế nào là Thất Niệm? Là đối với chánh pháp thường quên mất, cũng như ta nói trí nhớ chẳng tốt, thường hay quên mất. Trong kinh điển, đức Phật giảng đạo lý, phương pháp tu hành, cảnh giới khế nhập, kẻ ấy thường quên mất, đánh mất chánh tri kiến; những điều này đều liên quan đến việc tham chấp, ưa thích ngôn luận thế gian. Vô minh, phiền não, tập khí là nguyên nhân của hết thảy lầm lỗi. Các lỗi đức Phật nói trong kinh này đều có thể gọi là duyên, đã có nhân lại có thêm duyên, quả báo liền hiện, giống như trong kinh đã nói. Bài kệ thứ hai là: Chánh kinh: Viễn ly chánh tư duy. 遠離正思惟。 (Xa lìa chánh tư duy) “Chánh tư duy” là một điều trong Bát Chánh Đạo, kinh điển Đại Thừa còn thường gọi nó là Chánh Tri Chánh Kiến. Tiêu chuẩn của Chánh Tri Chánh Kiến là gì? Nhất định phải tương ứng với chân tướng sự thật, kinh Bát Nhã thường nói tới “Thật Tướng của các pháp”, cũng như ta thường nói “chân tướng của nhân sanh vũ trụ”. Có tương ứng với Thật Tướng của các pháp thì mới kể là Chánh Tri Chánh Kiến. Do đây biết rằng chánh tri chánh kiến trong Phật pháp hết sức hợp lý, chẳng phải là đoán mò. Chánh kinh: Thân tâm bất tịch tĩnh. 身心不寂静。 (Thân tâm chẳng tịch tĩnh). Tâm rất nhiều vọng niệm, thân lao chao, loạn động. Thân lẫn tâm đều chẳng ngưng lặng được. Chánh kinh: Thoái thất ư pháp nhẫn. 退失於法忍。 (Lui sụt nơi Pháp Nhẫn) Nói đơn giản là kẻ ấy chẳng có lòng nhẫn nại. Không chỉ chẳng có tâm nhẫn nại học Phật, mà ngay cả trong việc làm, sanh hoạt thường ngày, kẻ ấy cũng không có lòng nhẫn nại. Đấy cũng là lỗi hại của việc ưa thích ngôn luận thế gian. Chánh kinh: Kỳ tâm bất điều thuận, Viễn ly Xa-ma-tha, Cập Tỳ-bát-xá-na, Thị danh thế thoại quá. 其心不調順。 遠離奢摩他。 及毘缽舍那。 是名世話過。 (Tâm họ chẳng điều thuận, Xa lìa pháp tu Chỉ, Cùng là pháp tu Quán. Đó gọi lỗi thế thoại) Bài kệ thứ ba luận về dụng công. Ngôn ngữ thế gian cũng gây trở ngại rất lớn cho việc dụng công của chúng ta. “Tâm chẳng điều thuận” nghĩa là trong tâm kẻ ấy vọng tưởng, phiền não, tri kiến rất nhiều, công phu tu hành chẳng đắc lực. Xa-ma-tha và Tỳ-bát-xá-na đều là tiếng Phạn. Xa-ma-tha (Śamatha) dịch là Chỉ, Tỳ-bát-xá-na (Vipaśyanā) dịch là Quán. Trong Giáo Hạ, thường nói Chỉ Quán là Thiền Định. Thiền (Dhyāna) cũng là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Tĩnh Lự. “Tĩnh” (静) nghĩa là Chỉ, “Lự” (慮) nghĩa là Quán. Đủ thấy dù chữ dùng để phiên dịch sai khác, nhưng xét về mặt ý nghĩa, cảnh giới thì hoàn toàn tương đồng. Vì thế, hai câu này bao gồm hết thảy pháp môn trong Phật pháp, tất cả phương pháp tu hành đều gom về hai loại lớn này. Ta gọi Chỉ là “phóng hạ” (buông xuống); nếu quý vị đem thân, tâm, thế giới, hết thảy vọng tưởng, phân biệt, chấp trước buông hết cả xuống, bắt đầu từ đó thì gọi là “Xa-ma-tha”. Còn nếu quý vị từ “khán phá” (thấy thấu suốt thể tánh của mọi pháp), Tỳ-bát-xá-na là khán phá. Khán phá là thấy rõ ràng sự thật chân tướng, hoàn toàn hiểu rõ, thông đạt, tâm bèn thanh tịnh; từ đó mà nhập đạo thì gọi là “Tỳ-bát-xá-na”. Vì thế, nhập Bất Nhị pháp môn, quy nạp lại chẳng ngoài hai phương pháp: Một là Khán Phá, hai là Phóng Hạ. Người ưa thích ngôn luận thế gian, bị trở ngại nơi dụng công tu tập, “xa lìa Xa-ma-tha”, Chỉ lẫn Quán đều chẳng thể thành tựu. Chúng ta niệm Phật, chư vị đồng tu phải biết: Người có thể niệm Phật thì một câu Phật hiệu là Chỉ lẫn Quán. Trong ấy vừa có Chỉ vừa có Quán. Lúc niệm Phật buông xuống vạn duyên, sự gì cũng chẳng nghĩ tới, đó là Chỉ đấy! Hết thảy vọng niệm đều ngưng lặng, đều buông xuống, một câu sáu chữ hồng danh rành mạch, phân minh, minh bạch, rõ ràng, đó là Quán. Trong Đại Tập Kinh, đức Thế Tôn có dạy chúng ta như sau: “Niệm Phật là vô thượng thâm diệu thiền”, là do đạo lý này. Vì thế nếu quý vị thật thà niệm Phật, chẳng cần phải tu tham Thiền; niệm Phật là vô thượng thâm diệu Thiền, một câu Phật hiệu có đủ Xa-ma-tha lẫn Tỳ-bát-xá-na! Tiếp theo là bài kệ thứ tư cho biết ngay trong cuộc sống, cũng nẩy sanh rất nhiều vấn đề. Chánh kinh: Bất tôn kính sư trưởng, Ái nhạo ư thế luận, Trí huệ bất kiên cố, Thị danh thế thoại quá. 不尊敬師長。 愛樂於世論。 智慧不堅固。 是名世話過。 (Chẳng tôn kính sư trưởng, Yêu thích lời thế gian, Trí huệ chẳng vững vàng, Đó gọi lỗi thế thoại) Chữ “sư trưởng” ở đây chỉ các vị thầy dạy chúng ta học Phật pháp, chứ chẳng phải là bậc sư trưởng trong thế gian. Bậc sư trưởng thế gian chẳng dạy ta liễu sanh tử, xuất tam giới; sư trưởng ở đây chỉ vị thầy dạy liễu thoát sanh tử, siêu thoát luân hồi. Do vì quý vị ưa thích ngôn luận thế gian, đương nhiên quý vị quên mất sự nghiệp tu đạo, hoặc tối thiểu cũng là [tu tập] qua quýt, chẳng sốt sắng thực hành; đó là chẳng kính sư trưởng. Bởi lẽ, sư trưởng chẳng cần ta phải thường phụng dưỡng, cung kính; [tôn kính sư trưởng] chẳng có nghĩa như vậy. Thế nào là tôn kính sư trưởng? Y giáo phụng hành mới là tôn kính chân chánh. “Trí huệ chẳng vững vàng”, đấy là đạo lý nhất định. Trí huệ chân thật sanh khởi từ tâm thanh tịnh. Tâm quý vị chẳng thanh tịnh làm sao có trí huệ? Bài kệ thứ năm là: Chánh kinh: Chư thiên bất cung kính, Long thần diệc phục nhiên, Thoái thất ư biện tài, Thị danh thế thoại quá. 諸天不恭敬。 龍神亦復然。 退失於辯才。 是名世話過。 (Chư thiên chẳng cung kính, Long thần cũng giống vậy, Biện tài bị lui sụt, Đó gọi lỗi thế thoại) Quý vị chẳng được hộ pháp thiện thần bảo vệ, giúp đỡ. Dẫu có biện tài thì biện tài ấy cũng bị lui sụt. Bài kệ thứ sáu: Chánh kinh: Thánh giả thường ha trách, Như thị đam trước nhân, Đường quyên ư thọ mạng, Thị danh thế thoại quá. 聖者常呵責。 如是耽著人。 唐捐於壽命。 是名世話過。 (Bậc thánh thường quở trách, Kẻ đắm nhiễm như thế, Để phí uổng thọ mạng, Đó gọi lỗi thế thoại) “Thánh giả” là người tu hành chứng quả. Họ trông thấy quý vị, cảm thấy oán tiếc vô cùng cho quý vị. Phải hiểu rằng: Trong vô lượng kiếp, được làm thân người, được nghe Phật pháp, thật vô cùng khó khăn. Trong Phật pháp, khó nhất là được nghe pháp môn Tịnh Độ, thật là hy hữu khôn sánh. Vì sao? Nếu như quý vị tin tưởng sâu xa pháp môn này chẳng nghi ngờ, y giáo phụng hành, bảo đảm trong một đời quý vị sẽ được giải thoát! Quý vị tu học các pháp môn khác, chưa chắc được vậy đâu! Vì sao? Tu các pháp môn khác phải đoạn Kiến Tư phiền não. Đoạn Kiến Tư phiền não nào phải chuyện dễ dàng. Pháp môn này chẳng cần đoạn phiền não, gọi là “đới nghiệp vãng sanh”, cốt sao quý vị tin tưởng, phát nguyện, chịu niệm Phật, quý vị sẽ thành công. Bởi thế, pháp môn này gọi là Đạo Dễ Hành. Trong hết thảy pháp Đại Thừa, pháp này dễ tu học nhất, dễ thành tựu nhất. Bởi thế, nó là pháp môn hy hữu khó gặp. Gặp được pháp môn này mà vẫn lười nhác, vẫn chẳng buông pháp thế gian xuống được, thật đáng tiếc thay! “Thánh giả” quở trách là vì vậy. Trong câu “đường quyên ư thọ mạng”, “đường quyên” (唐捐) là lãng phí. Quý vị bỏ phí thời gian quý báu của một đời này, chẳng dùng vào đạo nghiệp, thật đáng tiếc phi thường! Chánh kinh: Chư hạnh giai khiếm giảm, Viễn ly đại Bồ Đề, Mạng chung sanh ưu khổ, Thị danh thế thoại quá. 諸行皆缺減。 遠離大菩提。 命終生憂苦。 是名世話過。 (Các hạnh đều khuyết giảm, Xa lìa đại Bồ Đề, Mạng dứt sanh lo khổ, Đó gọi lỗi thế thoại) Chữ “chư hạnh” chỉ sự tu hành của người đó. Chúng ta phải hiểu thật rõ ý nghĩa của hai chữ “tu hành”. Phải vận dụng công phu tu học của chính mình vào trong sanh hoạt thường nhật, vào công việc, vào sự giao tiếp thông thường, thì mới gọi là “thật sự đắc lực”, chân chánh đạt được lợi ích thù thắng nơi Phật pháp. Đây cũng chính là điều tiên sinh Phương Đông Mỹ trong quá khứ thường gọi là sự hưởng thụ tối cao trong đời người vậy! Quý vị thật sự hưởng thụ được. “Các hạnh đều khuyết giảm” nghĩa là dù quý vị dụng công, cũng chẳng thể áp dụng vào sanh hoạt thường nhật được; trong công việc sanh sống hằng ngày, xử thế, đãi người, tiếp vật toàn là phiền não, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Nói cách khác, quý vị sử dụng công phu trật khớp đối với cuộc sống. Câu này có nghĩa như thế đó. “Xa lìa đại Bồ Đề”: Trong cuộc sống chẳng thể đạt lợi ích, nếu muốn chứng Bồ Đề Niết Bàn thì đương nhiên là càng mờ mịt, chẳng có hy vọng gì. “Mạng dứt sanh lo khổ”, chữ “lo khổ” chỉ ba ác đạo. Đấy cũng là do ngôn luận thế gian khiến cho công hạnh của chúng ta bị lỡ làng. Chánh kinh: Nghi hoặc tâm động dao, Do như phong xuy thảo, Trí huệ bất kiên cố, Thị danh thế thoại quá. 疑惑心動搖。 猶如風吹草。 智慧不堅固。 是名世話過。 (Tâm ngờ vực lay động, Như gió thổi rạp cỏ, Trí huệ chẳng vững vàng. Đó gọi lỗi thế thoại) Người nói nhiều chuyện thế gian, đắm chấp tranh luận thế gian, đối với những điều được nói trong kinh điển nhà Phật, dù lý luận, cảnh giới có hay đến đâu, kẻ ấy thường sanh tâm ngờ vực. Vì thế, tâm kẻ ấy bất định, lúc tin, lúc ngờ, lòng tin dao động, tín tâm chẳng thanh tịnh. “Gió thổi cỏ” là tỷ dụ, mang ý nghĩa bất định, đương nhiên trí huệ chẳng vững vàng. Bài kệ tiếp sau là tỷ dụ. Chánh kinh: Thí như xướng kỹ nhân, Tán thuyết tha dũng kiện, Bỉ nhân diệc phục nhiên, Thị danh thế thoại quá. 譬如倡妓人。 贊說他勇健。 彼人亦復然。 是名世話過。 (Ví như kẻ hát xướng, Khen người khác hùng mạnh. Người kia cũng giống thế. Đó gọi lỗi thế thoại) “Xướng kỹ nhân” là người biểu diễn, chẳng phải thật; ta thường gọi là người đóng tuồng. Đóng tuồng chứ không phải thật. Trên sân khấu, họ khen ngợi người nọ là “dũng mãnh” thì chỉ là lời nói trên sàn diễn, chứ người biểu diễn có thật sự mạnh mẽ hay chăng? Chưa hề thấy, họ chỉ diễn vai trò ấy. Giả đấy, chẳng thật đâu! Vì thế, người tu hành [ham thích ngôn luận thế gian] cũng giống như người đóng tuồng, chẳng thật sự thực hiện! Kẻ ấy giả vờ làm, chứ chẳng làm thật. Ý nghĩa của bài kệ này rất sâu, rất rộng vậy. Chúng ta hãy nghĩ kỹ xem mình học Phật là học thật sự hay chỉ là diễn tuồng thôi? Diễn cho chính mình coi hay là diễn cho người khác coi vậy? Rốt cuộc đều uổng công, thật đáng tiếc quá! Chánh kinh: Tùy trục thế ngữ ngôn, Nhiễm trước chư dục cảnh, Thường hành ư tà đạo, Thị danh thế thoại quá. 隨逐世語言。 染著諸欲境。 常行於邪道。 是名世話過。 (Ruổi theo lời thế gian, Nhiễm trước các cảnh dục, Thường hành theo đạo tà, Đó gọi lỗi thế thoại). Đây cũng là lỗi hại của ngôn luận thế gian. Ý nghĩa bài kệ này rất dễ hiểu. “Đạo tà”: Những gì chẳng phải do Phật nói, trái nghịch với Phật thì gọi là “đạo tà”. Chánh kinh: Hy cầu tâm bất toại. 希求心不遂。 (Tâm mong cầu chẳng thỏa) Có mong cầu nhưng cầu chẳng được, đấy chính là Cầu Bất Đắc Khổ trong Bát Khổ đó! Chánh kinh: Siểm khúc, đa tránh luận. 諂曲多諍論。 (Dua vạy, lắm tranh cãi) Tâm không chánh trực, thích tranh luận. Chánh kinh: Viễn ly ư thánh hạnh, Thị danh thế thoại quá. 遠離於聖行。 是名世話過。 (Xa lìa nơi hạnh thánh, Đó gọi lỗi thế thoại) “Thánh hạnh” là Bồ Tát hạnh. Bồ Tát hạnh là sáu Ba La Mật, mười đại nguyện vương. Kẻ ấy hoàn toàn trái nghịch, xa lìa lục độ và mười nguyện vương. Đây cũng là lỗi hại của ngôn luận thế gian. Chánh kinh: Ngu nhân đắc thiểu lợi, Kỳ tâm thường dao động, Như viên hầu tháo nhiễu, Thị danh thế thoại quá. 愚人得少利。 其心常搖動。 如猿猴躁擾。 是名世話過。 (Kẻ ngu được chút lợi, Tâm hắn thường dao động. Như vượn khỉ lăng xăng, Đó gọi lỗi thế thoại) “Ngu” (愚) là ngu si, không có trí huệ. Được chút ít cho là đủ, một chút lợi ích nhỏ nhoi trước mắt liền cho là đủ. Đối với thánh giáo, thậm chí đối với cả Tây Phương Cực Lạc thế giới của Tịnh Tông, họ lúc thì tin tưởng, lúc thì hoài nghi: “Phương Tây thật sự có thế giới Cực Lạc hay chăng? Mình niệm Phật, A Di Đà Phật có thật sự đến tiếp dẫn mình hay chăng?” Nẩy sanh mối ngờ vực ấy rất phiền. Quý vị đọc kinh Vô Lượng Thọ sẽ biết ngay! Nghi là chướng ngại lớn nhất đối với Bồ Tát, bởi thế căn bản phiền não là tham, sân, si, mạn, nghi. Nghi ở đây chẳng phải là mối nghi thông thường, mà là hoài nghi thánh giáo, là đại phiền não đó nghe! Nó khiến cho đạo nghiệp của kẻ ấy chẳng thể thành tựu, bởi lẽ tâm kẻ đó phập phều. “Viên hầu tháo nhiễu” là tỷ dụ, cũng như nói là “tâm viên ý mã” (tâm như vượn, ý như ngựa). Chánh kinh: Trí huệ đa thoái thất, Vô hữu giác ngộ tâm, Ngu giả sở nhiếp trì, Thị danh thế thoại quá. 智慧多退失。 無有覺悟心。 愚者所攝持。 是名世話過。 (Trí huệ hay lui sụt, Chẳng có tâm giác ngộ, Bị kẻ ngu nắm giữ, Đó gọi lỗi thế thoại) Tự mình thiếu trí huệ, chẳng giác ngộ, thường bị kẻ ngu bỡn cợt, nắm giữ, khống chế. Chánh kinh: Mê hoặc ư nhãn nhĩ, Nãi chí ý diệc nhiên, Thường dữ phiền não câu, Thị danh thế thoại quá. 迷惑於眼耳。 乃至意亦然。 常與煩惱俱。 是名世話過。 (Mắt, tai bị mê hoặc, Cho đến ý cũng thế, Thường chung đụng phiền não, Đó gọi lỗi thế gian) Đây là sáu căn mê hoặc; mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý khởi lên công dụng đều tương ứng với phiền não, đó cũng là lỗi của ngôn luận thế gian. Chánh kinh: Ngu nhân nhạo thế thoại, Tận thọ thường không quá, Bất như tư nhất nghĩa, Hoạch lợi vô hữu biên. 愚人樂世話。 盡壽常空過。 不如思一義。 獲利無有邊。 (Kẻ ngu ưa thế thoại, Trọn đời để luống qua, Chẳng bằng nghĩ một nghĩa, Được lợi chẳng ngằn mé) Trong bài kệ thứ mười lăm này, đức Thế Tôn vừa chỉ dạy vừa khuyên bảo chúng ta. Những ai ham thích “thế thoại”? Chữ “thế thoại” quý vị cần phải nhớ kỹ, phần trên tôi đã nói qua rồi, phạm vi của chữ này hết sức rộng; phàm hết thảy ngôn luận chẳng thể giúp quý vị vượt thoát lục đạo luân hồi đều gọi là “thế thoại”. Do đó biết rằng: Người ham thích thế thoại nhiều lắm! Những văn gia trứ danh trong lịch sử đều là những nhân vật đại biểu cho hạng người ưa thích thế thoại. Chúng tôi nhớ trong quá khứ, khi đại sư Huệ Viễn lập Liên Xã ở Lô Sơn mời những người chí đồng đạo hợp nhóm lại để niệm Phật cộng tu; khi đó, có đại văn học gia Tạ Linh Vận muốn dự vào liên xã liền bị đại sư Huệ Viễn cự tuyệt. Vì sao đại sư Huệ Viễn cự tuyệt? Vì ông Tạ ưa thích văn chương, làm thơ, đó đều là thế thoại. Ông ta có sở thích như thế sẽ làm ảnh hưởng đến tâm thanh tịnh của những người khác. Những người khác ngày ngày niệm kinh, niệm Phật, ông ta ở nơi đó ngâm thơ, viết văn, thì tu hành làm sao được? Đấy là ngu si, chẳng phải thông minh đâu nhé! Ngu si là gì? Là chẳng biết sợ luân hồi lục đạo đấy! Người có trí huệ nghĩ mọi cách để vượt thoát lục đạo luân hồi. “Trọn đời để luống qua”: Trọn cả đời này bỏ uổng. “Chẳng bằng nghĩ một nghĩa”: Nói đơn giản, câu này hàm nghĩa: Những kẻ ấy chẳng bằng bà cụ già chẳng biết lấy một chữ nhưng niệm một câu A Di Đà Phật, ngay cả câu A Di Đà Phật bà cụ cũng chẳng hiểu, nhưng bà cụ cũng chẳng quan tâm, cứ niệm mãi một câu A Di Đà Phật, niệm ba năm, năm năm, bà cụ thành công, biết trước lúc mất, đứng yên vãng sanh. Đấy gọi là người có trí huệ, người thông minh, người như vậy chẳng phải là kẻ ngu đâu nhé! “Được lợi không ngằn mé”: Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới bèn thành Phật, bèn thành Bồ Tát, lợi ích như thế Phật còn chẳng nói rõ được, chẳng thể nói cùng tận được. Chánh kinh: Thí như cam giá vị, Tuy bất ly bì tiết, Diệc bất tùng bì tiết, Nhi đắc ư thắng vị. 譬如甘蔗味。 雖不離皮節。 亦不從皮節。 而得於勝味。 (Ví như vị cây mía, Tuy chẳng lìa vỏ, đốt; Cũng chẳng từ vỏ, đốt, Mà được vị thù thắng) Ở đây, đức Phật lại nêu một tỷ dụ. Ví như ăn mía. Ba ngàn năm trước chỉ ở Ấn Độ mới có mía, còn chúng ta hiện thời cũng có, mía là thứ mọi người thường thích ăn. Vị mía rất ngọt; vị ngọt ấy chẳng tách rời khỏi vỏ mía hay đốt mía, nhưng cũng chẳng phát sanh từ vỏ mía hay đốt mía. Quý vị suy nghĩ kỹ điều này sẽ nhận hiểu, sẽ hiểu được ý vị ấy. Tiếp theo là diễn giải về mặt pháp [của tỷ dụ trên đây]. Chánh kinh: Bì tiết như thế thoại, Nghĩa lý do thắng vị, Thị cố xả hư ngôn, Tư duy ư thật nghĩa. 皮節如世話。 義理猶勝味。 是故舍虛言。 思惟於實義。 (Vỏ, đốt như thế thoại, Nghĩa lý như vị ngon, Vì thế, bỏ lời rỗng, Suy nghĩ nghĩa chân thật) Đạo lý này rất sâu. Vì thế, trước hết Phật phải nói tỷ dụ: Thế thoại giống như vỏ và đốt của cây mía. Chúng ta có cần thế thoại hay không? Cần chứ, chẳng thể rời lìa thế thoại được. Người với người giao tiếp nhau, phải dùng đến ngôn ngữ. Đời trước truyền đạt ý tưởng cho đời sau, hiện tại chúng ta muốn truyền đạt cho người đời sau, tức là lưu lại lịch sử, cũng phải dựa vào văn tự! Ngày nay chúng ta đọc kinh Phật, kinh Phật là văn tự, lời đức Phật nói từ ba ngàn năm trước, bây giờ chúng ta đọc đến hiểu được ý Phật, đều là thuộc thế thoại cả! Do vậy, thế thoại có công dụng, nhưng chẳng được chấp trước, chẳng được tham ái. Tham ái và chấp trước đều sai cả! Chúng ta cần phải hiểu rõ nghĩa lý của thế thoại, nghĩa lý ấy giống như vị ngọt của cây mía. Thế thoại dù là ngôn ngữ hay văn tự đều giống như vỏ, đốt cây mía. Chúng ta nhai xong nhổ ra, bỏ đi, hưởng mùi vị của nó thôi! “Vì thế, bỏ lời rỗng”: Quý vị phải hiểu như thế này, chẳng phải là không cần đến thế thoại, cứ dùng nó nhưng chẳng chấp trước nó là được! Vì thế quý vị phải biết “suy nghĩ nghĩa chân thật”, từ ngôn ngữ, văn tự của kinh điển mà thấu hiểu chân tướng của nhân sanh vũ trụ, đấy là điều đức Phật muốn dạy chúng ta. Chánh kinh: Trí huệ chư Bồ Tát, Năng tri thế thoại quá. 智慧諸菩薩。 能知世話過。 (Các Bồ Tát trí huệ, Biết lỗi của thế thoại) Những vị Bồ Tát có trí huệ đều biết lỗi hại của việc tham chấp thế thoại. Từ cổ đến nay, các vị tổ sư đại đức trong nhà Phật để lại cho chúng nhiều trước thuật; trong đó không chỉ là Phật pháp tức là lời giảng giải, sớ luận của hết thảy kinh điển, mà ngoài ra các ngài cũng lưu lại rất nhiều văn chương, thi từ. Vậy các ngài có tham chấp [thế thoại] hay không? Không! Nếu là không, tại sao các ngài trước tác những thứ đó? Các ngài có năng lực [làm như thế] chứ không cố ý học; nếu quyết ý học là sai mất rồi. Chúng ta phải quyết ý học đạo mà thôi, làm sao có thể học những thứ đó cho được? Các ngài có thiên phú ấy, ta hay nói là thiên tài. Các ngài vừa tiếp xúc liền biết, chẳng những biết mà còn biết rất cao minh nữa kia. Các ngài bèn dùng những thứ đó để làm Phật sự, để tiếp dẫn chúng sanh, kết duyên với đại chúng. Như Hoằng Nhất đại sư trong thời cận đại, thế ngữ, thế thoại đều là những điều Ngài đã học trước khi học Phật. Ngài thật sự có thiên tài, giỏi thư pháp, hội họa cũng giỏi. Ngài viết đẹp, vẽ khéo, làm thơ, điêu khắc vàng, đá cũng giỏi, những nghệ thuật thế gian như thế Ngài rất tinh tường. Ngài dùng những tài khéo ấy để làm Phật sự, để làm phương tiện tiếp dẫn chúng sanh. Chúng ta chẳng có thiên tài nên chẳng cần phải cố ý học những thứ ấy, học những thứ ấy là phạm lỗi rồi đấy! Nếu quý vị có năng lực như thế thì cứ việc, còn không có năng lực thì bất tất phải học. Ấn Quang đại sư rất chất phác; Ấn Quang đại sư viết rất nhiều, quý vị xem kỹ đi: Ngài hoàn toàn chẳng phải là một bậc thư pháp gia, nhưng chữ Ngài viết rất công phu, nhưng nếu luận về nghệ thuật, Ngài không muốn bàn đến. Quý vị quan sát kỹ: Ngài dốc tinh thần vào từng chữ. Vì thế, lão nhân gia dạy người, chữ chỉ cần viết từng nét, từng nét sao cho đúng quy củ là được, chẳng cần phải đẹp! Ngài chẳng muốn làm một vị thư pháp gia thì cần viết chữ đẹp để làm gì? Viết sao cho đoan chánh, thẳng thớm, quy củ, chỉnh tề là được. Ấn Quang đại sư nêu tấm gương như thế, chúng ta phải nhận biết. Đấy chính là gương tốt cho người tu học vậy. Chánh kinh: Thường ái nhạo tư duy, Đệ nhất nghĩa công đức. 常愛樂思惟。 第一義功德。 (Thường ưa thích tư duy Công đức Đệ Nhất Nghĩa) Đệ Nhất Nghĩa là Thật Tướng của các pháp, là Chân Như Bản Tánh, là chân tướng của nhân sanh vũ trụ. Nếu như quý vị vẫn chưa hiểu rõ, tôi xin thưa một cách chất phác cùng các vị như sau, một câu “nam mô A Di Đà Phật” là Đệ Nhất Nghĩa. Quý vị cứ thật thà niệm, đem hết tinh thần tập trung vào danh hiệu, niệm mệt bèn nghỉ, nghỉ khỏe rồi lại niệm tiếp, niệm Phật hiệu cho đến khi chẳng có tạp niệm xen lẫn vào đó thì đấy chính là “tư duy Đệ Nhất Nghĩa”. Bởi thế, đọc đến kinh văn này mà vẫn chẳng biết thế nào là Đệ Nhất Nghĩa thì phiền lắm đấy. Chánh kinh: Pháp vị cập nghĩa vị, Giải thoát đệ nhất vị, Thùy hữu trí huệ giả, Tâm bất sanh hân nhạo? 法味及義味。 解脫第一味。 誰有智慧者。 心不生欣樂 (Pháp vị và nghĩa vị, Vị giải thoát bậc nhất, Ai là người trí huệ, Chẳng sanh lòng vui ưa?) Phật, Bồ Tát vì chúng ta giảng kinh, thuyết pháp, quý vị nghe xong có chỗ giải ngộ thì đó gọi là “pháp vị”. Cùng một bộ kinh, quý vị mỗi ngày đọc tụng, mỗi ngày có điều giải ngộ. Phải làm sao mới có thể giải ngộ được? Vì sao chúng ta niệm mỗi ngày mà chẳng giải ngộ gì? Là vì chúng ta dụng tâm không đúng; phải dùng cái tâm chân thành, tâm cung kính, tâm thanh tịnh thì mới có ý vị, mới có chỗ giải ngộ. Quý vị không có chỗ giải ngộ tức là tâm quý vị chẳng chân thành, chẳng cung kính, chẳng thanh tịnh, đọc kinh Phật chẳng khác gì đọc báo thì làm sao đúng được? Làm sao có chỗ giải ngộ cơ chứ? Tâm chân thành, cung kính, thanh tịnh thì mỗi lần quý vị niệm một biến đều có chỗ giải ngộ. Ngộ sâu - cạn, rộng - hẹp liên quan rất lớn đối với việc dụng tâm của quý vị. Tâm quý vị càng thanh tịnh thì quý vị ngộ nhập càng sâu, ý nghĩa cũng càng rộng. Đó là pháp vị đấy! “Nghĩa vị”: “Nghĩa” là ngộ nhập cảnh giới, nghĩa lý. “Vị giải thoát bậc nhất”: “Giải thoát” là khế nhập cảnh giới. Ba nghĩa này, mỗi nghĩa sau càng sâu hơn nghĩa trước, tức là nghĩa càng về sau càng thù thắng hơn nghĩa trước. Nghĩa vị sâu hơn pháp vị, đệ nhất vị lại càng sâu hơn nghĩa vị. Nói chung đối với mọi người chúng ta, người nghiêm túc học Phật thường có thể đạt được pháp vị. Tâm địa thanh tịnh, chân thành đến mức cực điểm thì mới đạt được nghĩa vị. Trong bài kệ khai kinh, câu “nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa” nói đến nghĩa vị, tức là quý vị hiểu rõ ràng đạo lý, nghĩa thú của lời Phật dạy. “Đệ nhất vị” là quý vị chứng nhập cảnh giới, tức là chứng quả. Nghĩa thứ nhất là nghe nói, nghĩa thứ hai là hiểu rõ, nghĩa thứ ba là nhập cảnh giới. Nhập cảnh giới là vị bậc nhất mà quý vị tự nếm được. “Ai người có trí huệ, chẳng sanh lòng vui ưa?”: Ai có trí huệ mà chẳng ưa thích việc này? Vị của thế thoại trọn chẳng thể sánh bằng được! Vị của thế thoại cũng rất nồng. Cũng có loại thế thoại rất hay, đọc cả trăm lần chẳng chán, nó có sức quyến rũ như thế. Những tác phẩm văn học hay khiến cho người đọc yêu mến chẳng rời tay thì loại thế thoại ấy cũng có pháp vị, nhưng chẳng có nghĩa vị và đệ nhất vị. Nó cũng có pháp vị, nhưng đương nhiên là chẳng nồng đậm như trong Phật pháp. Chánh kinh: Thị cố ưng khí xả, Vô lợi chư ngôn thoại. 是故應棄舍。 無利諸言話。 (Vì thế, nên vứt bỏ, Những lời lẽ vô ích) Đối với chúng ta, chúng chẳng có lợi ích chân thật. Đoạn phiền não, khai trí huệ, liễu sanh tử, thoát tam giới, đấy mới là lợi ích chân thật. Phàm tất cả những gì không có nhũng lợi ích ấy, chúng ta đều phải nên xa lìa. Chánh kinh: Thường nhạo cần tư duy, Thù thắng đệ nhất nghĩa. 常樂勤思惟。 殊勝第一義。 (Thường thích siêng suy nghĩ, Nghĩa thù thắng bậc nhất) Đệ Nhất Nghĩa thường được nói tới trong Đại Thừa Phật pháp là Bồ Đề Niết Bàn, còn gọi là Nhất Chân Pháp Giới. Đây chính là Đệ Nhất Nghĩa chân thật, Đệ Nhất Nghĩa thù thắng. Chánh kinh: Như thị đệ nhất pháp, Chư Phật sở tán thán, Thị cố minh trí nhân, Thường nhạo cần tu tập. 如是第一法。 諸佛所贊嘆。 是故明智人。 常樂勤修習。 (Pháp bậc nhất như thế, Được chư Phật khen ngợi, Vì thế, người trí sáng, Thường thích siêng tu tập) Pháp được hết thảy chư Phật Như Lai khen ngợi chính là đại Bồ Đề, đại Niết Bàn, chư Phật Như Lai đã chứng đắc pháp ấy. Hy vọng hết thảy Bồ Tát nỗ lực tinh tấn, cũng mau chóng chứng đắc. Đấy là nguyện vọng Phật dạy cho chúng sanh. Chánh kinh: Nhĩ thời, Di Lặc Bồ Tát phục bạch Phật ngôn: - Hy hữu Thế Tôn nãi năng thiện thuyết thế thoại quá thất, tư duy thắng nghĩa lợi ích công đức. 爾時。彌勒菩薩。復白佛言。希有世尊。乃能善說。世話過失。思惟勝義。利益功德。 (Lúc bấy giờ, Di Lặc Bồ Tát lại bạch Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Hy hữu thay, Ngài có thể khéo nói lỗi lầm của ngôn luận thế gian và lợi ích công đức của việc tư duy nghĩa lý thù thắng) Đây là lời Bồ Tát Di Lặc tán thán đức Phật. Chánh kinh: Thế Tôn! Hà hữu Bồ Tát cầu ư Như Lai chân thật trí huệ, nhi phục nhạo ư hư cuống thế thoại. 世尊。何有菩薩。求於如來。真實智慧。而復樂於。虛誑世話. (Bạch Thế Tôn! Há có Bồ Tát nào cầu trí huệ chân thật của Như Lai mà lại thích những ngôn luận thế gian hư dối ư?) “Hà hữu Bồ Tát” nghĩa là có Bồ Tát nào hay không? Nếu như Bồ Tát chân chánh cầu chân thật trí huệ nơi tự tánh, thì vị ấy lẽ nào lại ưa thích những ngôn luận thế gian, học thuật thế gian như thế chăng? Đương nhiên vị ấy sẽ vứt bỏ, bởi lẽ, ưa thích ngôn luận thế gian, học thuật thế gian sẽ chẳng thể siêu thoát tam giới. Những lời răn dạy này của đức Thế Tôn đều là những lời răn dạy chân thật, thánh hiền thế gian chẳng thể nói được, chúng ta phải chú tâm thấu hiểu. Hết Phần 3 Ý kiến bạn đọc
Chánh kinh: