Phật sở hành xứ, quốc ấp khu tụ, mĩ bất mông hóa, thiên hạ hòa thuận, nhật nguyệt thanh minh, phong vũ dĩ thời, tai lệ bất khởi, quốc phong dân an, binh qua vô dụng, sùng đức hưng nhân, vụ tu lễ nhượng, quốc vô đạo tặc, vô hữu oan uổng, cường bất lăng nhược, các đắc kỳ sở.
Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú
(Tập 1)
Người giảng: Lão pháp sư Tịnh Không.
Thời gian: ngày 09 tháng 03 năm 2014
Địa điểm: giảng tại Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà HongKong.
(Đây là bộ khoa chú giảng lần thứ 4 khi ngài ở độ tuổi gần 90)
Các vị pháp sư, các vị đồng tu, xin chào mọi người, xin mời ngồi. Hôm nay là ngày 09 tháng 03 năm 2014, chúng ta bắt đầu học tập “Đại Kinh Khoa Chú” lần thứ 4. Mỗi lần học tập đều giúp cho chính chúng ta hướng nâng lên trên.
Việc chánh pháp có thể hồi phục hay không? Không phải ở ngoại duyên mà đều ở chính chúng ta. Thế Tôn có lúc đã nói, nói được rất rõ ràng, “Cái gì gọi là chánh pháp? Có người giảng kinh, có người nghe kinh, có người tu hành, có người chứng quả (Tịnh Độ vãng sanh chính là chứng quả). Tất cả đây đầy đủ chính là chánh pháp”. Còn như có giảng kinh, có nghe kinh, có tu hành, nhưng không có chứng quả thì đây gọi là tượng pháp. Đạo tràng tu Tịnh Độ nhưng không có người vãng sanh thì gọi là đạo tràng tượng pháp, còn có người vãng sanh thì đạo tràng chánh pháp. Dùng cái tiêu chuẩn này để xem Chùa Phật Lai, cái chùa nhỏ này nó là chánh pháp ngay trong chánh pháp, pháp thuần chánh, vì sao? Ba vị vãng sanh đều là biết trước giờ ra đi, tự tại vãng sanh. Đây là chánh ngay trong chánh, họ biểu diễn cho chúng ta xem, chúng ta phải nên học tập họ, phải nên làm theo họ. Họ có thể làm được, ta cũng có thể làm được. Chúng ta phải có lòng tin! Nếu như bạn nói họ có thể làm được, còn ta làm không được, vậy thì xong rồi, bạn vĩnh viễn không thể làm được. Vì sao vậy? Tín tâm của bạn không có. Lòng tin quan trọng hơn bất cứ thứ gì! Đại kinh, Đại luận như “Hoa Nghiêm Kinh” “Đại Trí Độ Luận” đều nói “tín vi đạo nguyên công đức mẫu, trưởng dưỡng nhất thiết chư thiện căn”. Phật pháp từ tâm tưởng sanh, giáo huấn thánh hiền cũng từ tâm tưởng sanh, bạn không tin thì không còn có cách nào. Hiện tại vì sao văn hoá truyền thống suy yếu? Bởi vì mọi người không tin, văn hóa truyền thống rất có thể tương lai sẽ hưng vượng ở nước ngoài. Vì sao vậy? Vì người nước ngoài tin. Cho nên chúng ta phải xây dựng lòng tin. Lão hoà thượng Hải Hiền cả đời làm biểu pháp cho chúng ta. Biểu cái pháp gì? Chính là giúp chúng ta thêm lớn tín tâm, kiên định tín tâm, kiên định nguyên tâm, chắc chắn được vãng sanh. “Chí tai diệu dụng, bất khả tư nghị”[7]: “Chí” là đạt đến cực điểm, kiệt tác của A Di Đà Phật, Thế Giới Cực Lạc là kiệt tác của ngài, phổ độ tất cả chúng sanh khổ nạn, mỗi mỗi viên mãn thành tựu Phật đạo, thật không thể nghĩ bàn. Chúng ta đọc cái đoạn văn phía sau: “Niệm Phật nãi tu hành chi kính lộ”[8]: “Kính lộ” chính là lộ gần, chính là đi đường tắt, cự ly gần nhất gọi là kính lộ. Trì danh lại là một trong bốn loại đường tắt niệm Phật[9], gọi là đường tắt trong tắt, “Hựu, bổn kinh bất xướng nhất tâm bất loạn”[10]: Kinh này không đề xướng câu này, “Trực dĩ phát bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật vi tông. Đản năng phát tâm chuyên niệm, giai khả vãng sanh.”[11]: “Tông” chính là tổng cương lĩnh tu học, tổng nguyên tắc tu hành, chỉ cần có thể phát tâm chuyên niệm, đều có thể vãng sanh, “Cố, cánh vi minh xác giản yếu, cố xưng Tịnh tông đệ nhất kinh. Nhân kỳ vi trực tiệt trung chi trực tiệt, phương tiện trung chi phương tiện, tuyệt đãi viên dung, bất khả tư nghì. Thị tri lợi tế chúng sanh, thử kinh vi tối”[12] Đích thực là Như Lai đã nói kinh này là đệ nhất kinh là không giả chút nào. Chúng ta gặp được là pháp môn đệ nhất này, thực tế là quá vinh hạnh, quá may mắn. Vậy làm thế nào ở ngay trong đời này gặp được pháp môn này? Phía sau chúng ta xem chú giải của lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ: “Kỳ tha pháp môn nãi chánh nhập vô sanh”[13]: Họ đi con đường là chánh đạo chính là “chánh nhập”[14]vô sanh pháp nhẫn, chính là minh tâm kiến tánh, chính là Bát Địa trở lên. Cho nên “Cố vi nan hành đạo”[15]: Thật khó, không phải là giả. Các pháp môn khác vào cửa đều khó. Thành thật mà nói, nếu chúng ta theo quỹ đạo chính qui mà đi thì chúng ta không thể vào được cửa. Vì sao? Vì điều kiện vào cửa là phải đoạn “kiến hoặc”. “Hoặc” là mê hoặc, “kiến” là kiến giải, cũng chính là nói chúng ta thấy sai rồi thì phải đem cái thấy sai này sửa đổi lại thì bạn mới có thể vào cửa. Cái thấy sai thứ nhất là gì? Thân thể gọi là thân kiến. Bạn nghĩ tưởng xem, chúng sanh trong sáu cõi, có ai không đem cái thân thể này xem là chính mình? Phật nói vậy là sai rồi, thân này không phải ta. Thân không phải ta, vậy cái gì là ta? Phật nói với chúng ta “ta là không sanh không diệt, còn cái thân này là thân sanh diệt”. Nếu thân này là ta thì sau khi chết rồi thì ta chẳng phải không còn hay sao? Vậy còn phải tu làm gì nữa? Không cần tu. Nhưng thân không phải ta, biết rõ ràng nó là giả. Vậy thân là cái gì? Giống như y phục vậy. Các vị biết rõ y phục không phải ta, mà đó là cái sở hữu của ta. Cũng vậy thân thể cũng chỉ là sở hữu của ta mà thôi, không phải ta. Bạn phải làm cho rõ ràng, làm cho tường tận, thì bạn không còn lo sợ đối với sanh tử nữa. Sanh tử là gì? Chính là đổi y phục mà thôi. Y phục này mặc bẩn rồi đổi bộ khác! Sáu cõi luân hồi chính là đổi y phục. Bạn “đổi” đi đến cõi nào? Việc này phải biết rõ. Phải phá “thân kiến”! Hay nói cách khác nếu chúng ta thật làm thì không nên vì cái thân này mà lo nghĩ, nếu vì thân lo nghĩ thì sai rồi, mà phải vì ta mà lo nghĩ. Ta là gì? Ta là “linh tánh”! Không gọi linh hồn. Vì sao vậy? Linh hồn chính là mê rồi, nó không có giác, linh hồn, gọi “linh” là giả, phải nên đổi một chữ từ “linh” thành “mê” hồn, vì sao? Nếu nó thật linh thì nó không thể nào đi đến ba đường ác để đầu thai, khi nó đến nhân gian để đầu thai thì nhất định nó phải chọn gia đình đại phú đại quý để khi sanh ra thì được hưởng phước, hưởng phước một đời, vậy mới linh. “Tánh” là linh, linh tánh, không mê chính là “linh tánh”, còn mê rồi chính là mê hồn, mê rồi, nó ở trong sáu cõi tìm thân thể, khi cái thân thể này hỏng đến không thể dùng thì nó lại đi đổi một thân thể khác. Nhưng tìm thân thể cũng không phải là nó có thể tuỳ tiện tìm, mà phải có duyên phận với cha mẹ. Nhưng duyên phận đều là không tốt. Duyên phận gì vậy? Báo ân, báo oán, đòi nợ, trả nợ. Chúng ta là mê mà không giác, nếu không có cái duyên này sẽ không đến để đầu thai, phàm hễ đến đầu thai, Phật nói với chúng ta, không ngoài bốn loại duyên này. Cho nên mang bầu không thể phá thai, bạn phải cố gắng mà sanh chúng ra, cố gắng mà nuôi dưỡng chúng. Nếu chúng là báo ân mà đến thì tự nhiên chúng chính là hiếu tử hiền tôn, vì sao vậy? Vì ngày trước bạn có ân với chúng, nên nếu như bạn lại phá thai, chính là bạn đem chúng giết đi, xong rồi, khi chúng đến là để báo ân bạn, bạn lại dùng cái thủ đoạn này đối với chúng, thì kết thành đại oán. Vậy khi chúng trở lại thì thế nào? Trở lại là báo thù; Còn nếu như chúng là báo oán mà đến, mà bạn lại phá thai giết chúng đi thì oán chồng thêm oán, thì thù hận đó càng sâu; Còn nếu chúng là đến để trả nợ, đời trước thiếu nợ bạn, nên hiện tại chúng đến để kiếm tiền hoàn trả bạn, nuôi bạn, vậy mà bạn đem chúng giết đi, thì trả nợ lại thêm vào nghiệp sát, biến thành cừu hận; Còn nếu là đến để đòi nợ, là cha mẹ thiếu chúng, chúng đến đòi nợ, bạn lại đem chúng giết đi, thì đời sau kiếp sau phiền phức thật lớn, vĩnh viễn trói buộc không rời. Đời đời kiếp kiếp. Không phải một kiếp một đời, chúng ta đã kết oán thù với bao nhiêu người? Cho nên nếu bạn hiểu rõ chân tướng sự thật, thì ngay đời này thiệt thòi không sợ, bị lỗ không sợ. Vì sao vậy? Trả nợ! Ta đã trả xong, không có oán hận, không có ý niệm báo thù. Đây gọi là gì? Đây là hiểu được trả nợ, kết sổ, không nên tạo ác nghiệp nữa. Sau khi bạn học Phật hiểu rõ rồi, phải dùng phương pháp giáo dục của Phật Đà đem oán thân trái chủ thảy đều biến thành đồng tham đạo hữu, thượng thượng thừa pháp, vậy thì đúng. Phật pháp mang đến cho chúng ta lợi ích thù thắng không gì bằng chính là cái này, đem đòi nợ trả nợ, ân ân oán oán thảy đều biến hoá thành pháp quyến, hết thảy oán thân trái chủ cùng chúng ta đều có chung một lão sư, chư Phật Như Lai, đồng tham đạo hữu đều là Bồ Tát. Chúng ta đi đạo dễ hành, không đi đạo khó hành: “Kim thử tịnh nghiệp, xảo nhập vô sanh”[16], Pháp môn này, chính là một câu Phật hiệu, nó quá xảo diệu rồi. Thật tin, thật nguyện, thì một câu Phật hiệu này không nên gián đoạn, ở mọi lúc vào mọi nơi trong tâm đều đang niệm Phật. Đối đãi tất cả người, tất cả sự vật, dùng tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng; Có thể xả, không nên chiếm hữu, không nên chiếm tiện nghi của người; Không nên chướng ngại thiện pháp của người, phải phát tâm “thành nhân chi mỹ”, không “thành nhân chi ác”. Khi người ta làm việc tốt thì đương nhiên phải có chỗ tốt đối với chính họ, nhưng cũng lại đều có chỗ tốt đối với xã hội, đối với mọi người, nên không những không thể chướng ngại, phải nghĩ ra cách để giúp đỡ họ, vậy thì đúng. Ta chịu giúp đỡ người khác thì có rất nhiều người giúp đỡ ta, còn ta nơi nơi chướng ngại người khác thì tương lai bị quả báo, ta muốn làm bất cứ việc gì thì có rất nhiều người chướng ngại ta, “nhân quả báo ứng, không hề sót lọt”. Vạn nhất không nên vì ta hôm nay có quyền có thế thì ta có thể chướng ngại họ. Nhưng trên thực tế ta không thể chướng ngại được họ, vì con đường này có chướng ngại thì họ đi con đường kia, nhất định phải nên biết. Trên thực tế có loại ý niệm sai lầm này, nên việc ta chướng ngại người chính là ta chướng ngại chính mình, còn ta không chướng ngại được người khác. Thiện tâm thiện hạnh ngay trong đời này, nhưng nếu như duyên không đủ thì bạn sẽ gặp phải rất nhiều chướng ngại, không thể thành tựu được thiện hạnh, thế nhưng công đức vẫn là viên mãn, dù bạn không làm được vẫn là viên mãn. Không phải là không có chướng ngại, bạn làm thành công mới viên mãn, mà dù có chướng ngại, không thành công cũng viên mãn. Như trên “Kinh Lăng Nghiêm” nói “phát ý viên thành, viên mãn công đức”. Bởi vì bạn phát ra là chân tâm. Vậy tại vì sao có chướng ngại? Đây không phải nghiệp chướng của chính mình mà chính là chúng sanh phước mỏng. Mọi phương diện thấy được rõ ràng, họ chướng ngại ta, nhưng thực ra là người đó không phải chướng ngại ta, mà là chướng ngại chúng sanh, còn chúng ta vì chúng sanh phục vụ nên họ chướng ngại làm cho chúng ta không cách gì vì mọi người phục vụ, vậy thì chúng ta vui được thanh nhàn, nhưng công đức vẫn viên mãn. Họ tạo tội nghiệp, họ bị kết tội nhưng không phải từ nơi ta mà kết, bởi vì ta không trách họ, ta không đối đầu với họ, mà đích thực là họ đã kết tội với chúng sanh. Cho nên “nay tu Tịnh nghiệp, khéo nhập Vô sanh”[17] “Cái dị đạo hành dã”[18]: Đây là đạo dễ hành. “Niệm Phật pháp môn nãi tu hành chi kính lộ”[19]: Nhà Phật có một quyển sách nhỏ “Lối Tắt Trong Lối Lại Có Lối”. Khi tôi mới học Phật ưa thích xem sách này. Lối tắt là so với ai? So với Tiểu thừa thì Đại thừa là lối tắt là lối tắt, vì Tiểu thừa là cự ly xa; Đại thừa so với Thiền tông thì Thiền tông là lối tắt, vì thông thường Đại thừa giáo tu học rất khó; Thiền tông so với Tịnh Độ thì Tịnh Độ lại là lối tắt, Thiền thì khó rồi; Trong Tịnh Độ có bốn loại niệm Phật là: Một là: Thật tướng niệm Phật, khó! Không phải người thông thường thì có thể làm được; Hai là: Quán tưởng niệm Phật thì tương đối dễ hơn. Thế nhưng quán tưởng phải là người rất tỉ mỉ, người rất có tâm nhẫn nại, còn người có tâm khí sôi động mà quán tưởng thì quán không thành. Nếu bạn không tin tưởng thì thực nghiệm mà xem. Trong mười sáu phép quán thì thứ nhất là quán thái dương, “lạc nhật huyền cổ”. Quán được thành công là như thế nào? Mở mắt ra thái dương ở trước mặt, nhắm mắt lại thái dương cũng ở trước mặt, không luận bất cứ lúc nào bạn vừa quán tưởng, thái dương liền ở trước mặt. Bạn hãy thử xem, bạn có thể quán thành hay không? Nếu quán thành rồi, thì dùng cái công phu này niệm Phật này chắc chắn vãng sanh; Ba là: Quán tượng niệm Phật. Bạn ưa thích tượng Phật, bạn ngày ngày nhìn vào đó. Việc này bạn phải có phước báo. Vì sao vậy? Vì bạn hàng ngày đều không cần phải làm việc, ban ngày, buổi tối đều đối mặt với tượng Phật. Nếu không đối mặt thì sao? Không đối mặt thì quán không thành. Nhất định không thể lìa tượng Phật. Hiện tại chúng ta nếu dùng cái phương pháp này thì dùng hình chụp. Năm xưa tôi ở thư viện Hoa Tạng cúng một tôn tượng sứ màu trắng sứ, tượng A Di Đà Phật. Hiện tại tôi vẫn đều dùng, cả đời của tôi không thay đổi. Tôi đem tôn tượng này chụp hình phóng to ra, rất trang nghiêm, dùng tấm hình này chính mình tỉ mỉ mà quán sát. A Di Đà Phật rất ít hiện loại diện tướng này, mà thường là diện tướng đồng tử, chúng ta cúng là diện tướng của đồng tử. Trong tâm tưởng A Di Đà Phật thì cái tướng này liền sẽ hiện tiền, gọi là quán tượng niệm Phật. Bốn là: Trì danh niệm Phật. Trì danh là dễ dàng nhất. Trong bốn loại trên thì trì danh niệm Phật là thuận tiện nhất. Đây là lối tắt ngay trong lối tắt, trực thông Vô Thượng Bồ Đề đại đạo, không vòng vèo, gọi là đạo dễ hành. Cho nên nói: “Trì danh nhất pháp, hựu vi tứ chủng niệm Phật trung chi kinh lộ, cố xưng vi kính trung chi kính”, [20] Nên gọi là lối tắt trong lối. Lại bổn kinh này không đề xướng “nhất tâm bất loạn”. Vì sao vậy? Nhất tâm bất loạn người thông thường không làm được, nên nhiều người khi xem thấy câu này trên “Kinh Di Đà” liền e ngại “việc này tôi làm không được”, thế rồi họ không chịu niệm Phật. Tôi gặp qua loại người này rồi. Nguyên bổn tiếng Phạn cũng không có “nhất tâm bất loạn”, hay nói cách khác “nhất tâm bất loạn” là do Đại sư Cưu Ma La Thập ngài dịch, ngài dùng cụm từ “nhất tâm bất loạn”. Có đạo lý hay không? Có đạo lý! Chúng ta niệm Phật muốn niệm đến thành khối vì chỉ khi nào niệm phật thành khối thì mới có thể vãng sanh. Công phu thành khối không phải là nhất tâm bất loạn mà chính là trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, ngoài A Di Đà Phật ra, không có vọng tưởng, không có tạp niệm, đây gọi là công phu thành khối. Điều này thì mỗi một người đều có thể làm đến được, có được công phu này thì có thể tự tại vãng sanh. Ba vị lão nhân của chùa Phật Lai đều đạt đến cảnh giới này. Nhưng tại vì sao Đại sư Cưu La Ma Thập lại dịch thành “nhất tâm bất loạn”? Vì khi A Di Đà Phật đến tiếp dẫn, trước tiên Ngài dùng Phật quang chiếu đến bạn, khi Phật quang chiếu đến bạn, thì công phu của bạn liền nâng cao gấp bội, nếu công phu thành khối được nâng lên chính là “sự nhất tâm bất loạn”, ngài không dịch sai. Thế nhưng người thông thường không biết, nên nếu không giảng rõ ràng thì họ không biết được. Người được “sự nhất tâm bất loạn”, thì được nâng lên đến “lý nhất tâm bất loạn”, Phật quang vừa chiếu, công phu lập tức tăng lên gấp bội. Vậy người không có công phu thì sao? Phật quang vừa chiếu liền được công phu thành khối, chỉ cần bạn có thật tin, thiết nguyện, khi lâm chung đầu óc rõ ràng niệm mười câu Phật hiệu, thậm chí một câu Phật hiệu đều có thể vãng sanh. Đó chính là Phật quang chiếu soi, đem bạn nâng lên đến công phu thành khối. Bạn quyết định không thể hoài nghi, quyết định không thể xen tạp vọng tưởng tạp niệm, tâm phải thanh tịnh. Cho nên bình thường chúng ta phải luyện dùng tâm chân thành, không luận đối với bất cứ người nào dùng chân tâm, chắc chắn không thiệt thòi. Bạn không thể nói“tôi dùng chân tâm đối với Phật, còn tôi dùng vọng tâm đối với người thông thường, vì họ dùng vọng tâm đối với tôi, tôi dùng vọng tâm đối với họ”. Sai rồi! Vọng tâm dùng thành thói quen nên đối với Phật vẫn là vọng tâm, vậy thì sai rồi. Phải đem nó chuyển đổi lại, không sợ thiệt thòi, không sợ chịu lỗ. Chịu lỗ thiệt thòi không hề gì, bởi vì mục tiêu của chúng ta là đến Thế Giới Cực Lạc, ta không muốn ở cái thế giới này. Cái thế giới này bất cứ thứ gì ta đều có thể buông xả được, không có tham luyến, không có chiếm hữu. Bạn thật tự tại, tâm khai ý giải, an vui không gì bằng, không có phiền não, không có lo lắng. Dùng chân tâm sinh hoạt, làm việc, đối người, tiếp vật toàn dùng chân tâm, vậy thì chúng ta mỗi niệm là giống như A Di Đà Phật. Hy vọng tất cả chúng sanh đều có thể tường tận, đều có duyên phận tiếp xúc pháp môn Tịnh Độ, đều có thể thật tin, thật nguyện, thành thật niệm Phật, tương lai đều là đến Thế Giới Cực Lạc, đều là đồng tham đạo hữu trên hội Di Đà, đây thật tốt đẹp. Người khác không tốt đối với ta, ta vẫn đối tốt với họ; Người khác huỷ báng ta, ta vẫn tán thán họ. Điều này sẽ có đại lợi ích đối với chính mình, vì sao vậy? Chính mình chân thật buông xả! Không có xung đột với bất cứ người nào, cái họ cần ta không cần, cái ta cần họ không cần, chúng ta không có xung đột lợi hại với bất cứ người nào. Cái người thế gian không thể buông xả là: Tài, sắc, danh, lợi, năm dục (ngũ dục), bảy tình (thất tình), chẳng phải là những thứ này sao? Nhưng chúng ta thảy đều buông xả, thậm chí ngay “pháp còn nên xả huống hồ phi pháp”. Nếu bạn hỏi“Vậy chúng ta còn xây trường học, xây Viện Hán học, xây đại học Phật Giáo làm gì?” Đó là vì người khác mà xây, không phải vì ta. Chúng ta có cái duyên này, gặp được sự việc này, hy vọng thành tựu cho người, giúp cho chánh pháp cửu trụ, giúp đỡ thành tựu người tài, thì đây là việc nên làm. Tùy phần tùy lực mà làm, cũng không cần miễn cưỡng. Cho nên bổn kinh này nói thẳng ra, chính là dùng: “Phát tâm bồ đề, một lòng chuyên niệm A Di Đà Phật”: Làm tông chỉ, tông yếu tu học. Chỉ cần phát tâm chuyên niệm, đều có thể vãng sanh, chắc chắn vãng sanh, “Cố cánh vi minh xác giản yếu, thị cố thử kinh xưng vi tịnh tông đệ nhất kinh, nhân kỳ vi trị tiệt trung chi trị tiệt, phương tiện trung chi phương tiện, tuyệt đãi viên dung, bất khả tư nghị”[21]: “Tuyệt đãi” chính là tuyệt đối. Tuyệt đãi viên dung là “Hoa Nghiêm”, “Pháp Hoa”, vậy mà bộ kinh này so sánh với “Hoa Nghiêm”, “Pháp Hoa” còn viên dung hơn, càng không thể nghĩ bàn. “Nhật Bản Tịnh tông đại đức thôi trọng thử kinh, quá ư ngã quốc”[22]: Lời nói này là chân thật. Những đại đức Tịnh tông Nhật Bản này, đại khái đều là thời Đường Tuỳ, họ đến Trung Quốc để du học, họ thân cận với Đại sư Thiện Đạo là tổ thứ hai của Tịnh Độ chúng ta, thân cận Đại sư Trí Giả. Cho nên Phật giáo của Nhật Bản, Tịnh Độ cùng Thiên Thai đặc biệt hưng vượng. Họ tôn trọng Đại sư Thiện Đạo, họ xem là tổ khai sơn thứ nhất của Tịnh Độ tông Nhật Bản. Việc này chúng ta tán thán Nhật Bản, họ không vong bổn, tôn sư trọng đạo, không có truyền giáo ở Nhật Bản thì họ xem Đại Sư Thiện Đạo, ngài chính là thỉ tổ, họ tôn thờ Đại sư Thiện Đạo là thỉ tổ. “Nhật Hắc Cốc Đại Kinh Dịch”[23]: “Đại kinh” này chính là “Kinh Vô Lượng Thọ”, đây là chú giải của “Kinh Vô Lượng Thọ” của sư Hắc Cốc - người Nhật. Trong đây có một đoạn lời nói: “Ư vãng sanh giáo, hữu căn bản, diệc hữu chi mạt”[24]: Vãng sanh chính là niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Pháp môn này, giáo pháp này “có cội gốc cũng có cành nhánh”. Tịnh Độ có ba kinh một luận, ở vào thời đó là thời triều nhà Đường, kinh điển của Tịnh Độ rất ít, dễ dàng, càng ít càng dễ dàng, chỉ có ba kinh một luận. Trong ba kinh này thì là lấy “Kinh Vô Lượng Thọ” làm căn bản, cội gốc, còn Quán Kinh, A Di Đà Kinh, Vãng Sanh Luận, đây đều là cành nhánh. “Hựu thử kinh danh chánh vãng sanh giáo”[25]: Ở trong 3 kinh Tịnh độ thì kinh giáo vãng sanh thì “Kinh Vô Lượng Thọ” đối với Thế Giới Cực Lạc giới thiệu được rất tường tận, là cội gốc, là chánh vãng sanh giáo. “Dư danh bàng vãng sanh giáo”[26]: “Dư” chính là ba loại khác, “Kinh Di Đà”, “Kinh Quán Vô Lượng Thọ”, “Vãng Sanh Luận”, là cành lá, đây gọi là “bàng” vãng sanh giáo. “Hựu, thử kinh danh vãng sanh cụ túc giáo”[27]: Vì sao vậy? Nó mọi mặt đều nói đến, tánh tướng, lý sự, nhân quả đều nói đến, cho nên nó là đầy đủ, “Tha kinh danh vãng sanh bất cụ túc giáo”[28]: Kinh khác như: “Kinh Di Đà” cũng nói đến, nhưng nói được đơn giản, cùng với Kinh Vô lượng Thọ mà so thì kém rất xa, cái này rõ ràng; Còn “Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh” chỉ nói hai loại: thứ nhất là căn cứ đạo lý gì để xây dựng cái giáo này, phải có lý; thứ hai là nói phương pháp, phương pháp vãng sanh, nó chỉ nói hai thứ này. Ngoài ra các thứ khác như kinh Vô lượng thọ đã nói thì không nhắc tới. Đây là chỉ nói kinh luận Tịnh Độ. Lý luận chỉ có hai câu nói “thị tâm thị Phật, thị tâm tác Phật”. Đây là lý luận mà Tịnh Độ tông đã nương tựa. Bởi vì bạn căn bản là Phật, điều này Phật đều đã nói qua ở trong “Hoa Nghiêm Kinh”, “Pháp Hoa Kinh”. Phàm là đệ tử Phật, không luận học một tông phái nào, không luận tu một pháp môn nào, cái lý luận này nhất định phải thừa nhận, nhất định phải tiếp nhận, không tiếp nhận không thể thành tựu. Nhất định phải tin Phật không nói lời sai “mỗi một chúng sanh vốn dĩ đều là Phật”, chẳng qua chỉ là mê mất đi tự tánh. Tự tánh mê rồi, thế là tư tưởng, kiến, giải sanh ra sai lệch, ngôn hạnh có sai lầm, nên mới đem pháp giới nhất chân (chính là Cõi Thật Báo Trang Nghiêm) biến thành mười pháp giới, biến thành sáu cõi luân hồi. Đây là do ý niệm sai lầm mà biến hiện ra. Thời gian biến đổi quá lâu nên không thể quay lại. Nếu như không thể gặp được Phật Đà, chúng ta mãi mãi sai lầm, ở mãi trong luân hồi, quá khổ rồi. Hiện tại chúng ta rất may mắn gặp được Phật pháp, gặp được Đại thừa, gặp được Tịnh tông, đây là may mắn không gì bằng. Cái vận may này chính mình cần phải hoàn toàn hiểu rõ thì bạn mới biết được bạn quá may mắn rồi. Còn nếu như bạn đối với Tịnh tông, hiểu không được đủ sâu, không được đủ thấu triệt, thì bạn sẽ không trân trọng, bạn mang trong lòng bảo vật mà bạn không biết. Cho nên nếu bảo vật này của bạn không khởi được tác dụng thì bạn vẫn cứ là phải luân hồi, đây là đặc biệt sai lầm. Đại sư Hắc Cốc đã nói: “Cứ thượng chi nghĩa, Tịnh Độ tông thí như Diệu cao phong đầu”[29]. Ngài chính cái ý này, chóp đỉnh của ngọn núi Diệu cao, là đỉnh núi, “Nhi bổn kinh chánh như phong đầu chi đỉnh tiêm”[30]: Lời nói này là thật, không phải giả. Chúng ta cầu pháp, chóp nhọn của tất cả pháp chính ở ngay trong tay chúng ta, nhưng chúng ta không nhận biết được mặt hàng, nên cho rằng vẫn có chỗ tốt, chạy khắp nơi đi tìm. Sai rồi! Ai nhận biết, ai tường tận? Ba lão nhân của chùa Phật Lai, họ nhận biết, họ tường tận, cả đời họ không tìm pháp môn thứ hai, họ có thành tựu lớn như thế nào? Tôi khẳng định họ đều là minh tâm kiến tánh, đều là pháp thân Bồ Tát, không phải người phàm. Tôi nói lời nói này không phải tuỳ tiện nói, mà là xem hành trì cả đời của ba vị lão nhân này, cùng biểu diễn, sau cùng của họ đều không bệnh mà đi, tự tại mà đi, giống như là đùa giỡn vậy. Nói “ta đi đây!”, thì thật ra đi. Việc này khiến người kinh ngạc, người khác đi làm gì có loại cách đi này! Bạn đến bệnh viện mà xem, ra đi rất khổ sở, bộ dạng rất khó coi, làm gì có cười mỉm như vậy mà ra đi, vui vẻ như vậy mà ra đi. Ba lão nhân cùa Phật Lai này, họ ở nơi đây làm nhiệm vụ biểu pháp. Kết thúc sau cùng phía sau thì sao? Phía sau sẽ có người sau đến kế tiếp. Giống như chạy tiếp sức vậy, họ đã chuyển tiêu cho người sau rồi, vô cùng an vui, rời khỏi đường chạy của họ. Pháp môn này phương pháp chỉ là một câu A Di Đà Phật. Chóp đỉnh, chóp đỉnh của chóp đỉnh, chính một câu này. Nếu bạn thật nhận biết thì có thể nói trí tuệ của bạn liền viên mãn rồi, bạn không cần dùng cái khác, chính một cách này thành vô thượng đạo, nhất định được niệm Phật tam muội, nhất định được đại triệt đại ngộ. Ba lão nhân chù Phật Lai nếu không phải là niệm Phật tam muội, không phải đại triệt đại ngộ thì khi ra đi làm sao tự tại như vậy? “Bổn kinh vị đương lai nhất thiết hàm linh, giai y thử pháp nhi đắc độ thoát”[31] Là nói bổn kinh này nói. Đây là Thích Ca Mâu Ni Phật nói, “đương lai” là tương lai, Mạt pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật vẫn còn chín ngàn năm, chín ngàn năm về sau chân thật vẫn có thể học Phật mà được độ, có thể một đời thành tựu chỉ có bộ kinh này, chỉ có phương pháp này, thành thật niệm Phật. Đại sư Ấn Quang cả đời dạy người “Đốn luân tận phận, nhàn tà tồn thành, tín nguyện trì danh, cầu sanh Tịnh Độ”. Đây là pháp yếu truyền tâm của Đại sư Ấn Quang, tôi đã khắc một cái ấn này. Bạn muốn hỏi Đại sư Ấn Quang, con người này là người thế nào? Mười sáu chữ này chính là cả đời của ngài viết ra: “Đốn luân, tận phận”: “đốn” là thân ái, “luân” là đồng loại. Phạm vi mở rộng “đồng” là người thì đều yêu thương, đây là đốn luân. Phàm là người thì có người có thân, sơ, trước tiên từ gia đình chính mình, sau đó mở rộng đến gia tộc, sau đó mở rộng đến hàng xóm láng giềng, mở rộng đến xã hội, mở rộng đến quốc gia, mở rộng đến toàn thế giới phàm là người đều yêu thương. Trên “Đệ Tử Qui” nói, đây gọi là đốn luân; “tận phận” là gì? Là dốc hết bổn phận của chính mình! Vì tất cả chúng sanh phục vụ, quan tâm tất cả chúng sanh, chăm sóc tất cả chúng sanh, giúp đỡ tất cả chúng sanh, toàn tâm toàn lực, không cầu hồi báo, đó chính là tận phận. Đây là pháp thế gian. Nhưng bạn phải biết pháp thế gian là nền tảng của pháp xuất thế gian, không có pháp thế gian, thì làm gì có Phật pháp? Phật pháp xây dựng trên nền tảng của pháp thế gian. Trong Tịnh Nghiệp Tam Phước thì phước thứ nhất “hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp” là nền tảng. Bạn không thể không chăm chỉ học tập. Chúng ta học Phật tại vì sao không thể thành công? Chính là không có nền tảng, hoặc nền tảng không đủ sâu. Vậy bạn phải liều mạng cắm gốc nơi đây, về sau mới có thể lớn mạnh, mới có thể khai hoa kết quả, gốc rễ bám sâu mới vững chắc, gốc không sâu không được. Bạn phải thật nhận biết đối với pháp môn này. Muốn vậy kinh phải đọc nhiều, nghe nhiều thì sẽ giúp đỡ bạn nhận biết. Khi bạn chân thật nhận biết rồi, tâm của bạn liền định rồi. Sau khi tâm định rồi thì liền có thể không cần đọc kinh, nghe kinh nữa, chỉ cần bạn một câu A Di Đà Phật niệm đến cùng. Bạn càng niệm càng hoan hỉ. Vì sao vậy? Một câu A Di Đà Phật này bao gồm tất cả kinh đều ở trong, đều đọc rồi, không bỏ sót bộ nào. Cũng như vậy một câu A Di Đà Phật này là tất cả danh hiệu chư Phật Bồ Tát đều ở trong, đều không thiếu. Một câu danh hiệu này là đại viên mãn. “Thị tri lợi tế chúng sanh, thử tối vi kinh”[32]: Lợi ích chúng sanh, cứu tế chúng sanh, kinh này tối thắng. Tôi mới phát tâm buông xả “Hoa Nghiêm kinh” mà bình thường tôi rất ưa thích để chuyên môn học cái pháp môn này, chuyên môn học bộ kinh này, chuyên môn giảng bộ kinh này. Tôi không luận đến nơi đâu thảy đều giảng bộ kinh này, tôi cũng còn có chức danh trọn đời là giáo thọ của trường đại học nên khi tôi vào trường học khai khoá tôi đều là khai “Kinh Vô Lượng Thọ”. Tôi chỉ khai cái pháp môn này bởi vì Đại học này có khoa Hán học, trong khoa Hán học chính là Nho-Thích-Đạo, khoa Hán học có học vị, có học sĩ, thạc sĩ, tiến sĩ, có học vị, cho nên tôi có thể khai pháp môn này. “Trì danh chi pháp, ám hợp đạo diệu, tối dị hành cố”[33]: Ba câu sau cùng này khuyến khích chúng ta. Chúng ta phải ghi nhớ, thầm hợp đạo mầu, thật dễ dàng, không khó, thật thành tựu. Bạn xem thấy ba lão nhân chùa Phật Lai đều là người bình thường ở trong xã hội, không có địa vị, không có quyền thế, bần cùng, cũng không có tiền của, không có bất cứ thứ gì, nhưng họ đều là thành tựu viên mãn. Hôm nay thời gian đã hết, chúng ta chỉ học đến đây thôi. A Di Đà Phật. Ghi chú: [1] Cái tâm sanh diệt của chúng sanh, chỗ nào cũng có thể duyên, chỉ chẳng thể duyên nơi Bát Nhã. Địa vị cần phải đạt đến Sơ Địa trong Biệt Giáo (là Sơ trụ trong Viên giáo) trở lên mới hòng khế nhập, lúc vô trụ bèn sanh tâm, lúc sanh tâm bèn vô trụ [2] chỗ nào cũng có thể duyên, chỉ chẳng thể duyên nơi Bát Nhã. [3]Những vị Bồ Tát trước khi chứng Sơ Địa, vẫn tách thành hai: thời này sanh tâm, thời khác vô trụ [4] Có thể thấy phàm phu chẳng có phần [5]Nay pháp môn Tịnh Độ này dạy chúng sanh trì danh niệm Phật, khiến cho chúng sanh do niệm mà lìa niệm, ngầm thông với Phật, thầm hợp đạo mầu, khéo nhập vô niệm, từ ngay nơi phàm mà thành thánh [6] Do vậy Sớ sao viết vượt ba A-tăng-kỳ trong một niệm, bằng với chư thánh do một lời [7] Diệu dụng cùng tột thay, chẳng thể nghĩ bàn [8] Pháp môn Niệm Phật là đường tắt trong sự tu hành [9] Quán Tưởng Niệm Phật, Quán Tượng Niệm Phật, và Trì Danh Niệm Phật, Thật Tướng Niệm Phật [10] Lại nữa, kinh này chẳng đề xướng nhất tâm bất loạn [11] Thẳng thừng lấy phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm A Di Đà Phật làm Tông. Chỉ cần có thể phát tâm chuyên niệm, đều được vãng sanh [12]Do vậy, pháp này càng là rõ ràng, xác thực, đơn giản, tóm tắt, kinh này là đệ nhất kinh trong Tịnh tông. Do vì pháp này thẳng gọn nhất trong các pháp thẳng gọn, thuận tiện nhất trong các pháp phương tiện, dứt bặt đối đãi một cách viên dung, chẳng thể nghĩ bàn, vì vậy kinh này lợi lạc chúng sanh lớn nhất. [13] Những pháp môn khác nhập thẳng vào Vô Sanh, nên là đạo khó hành [14] Thực hiện từng bước một, tiến lên theo từng cấp bậc một, tiến cao lên dần, giống như 51 địa vị được nói trong kinh Hoa Nghiêm, đó là “chánh nhập”, thời gian rất dài [15] nên là đạo khó hành [16] Nay Tịnh nghiệp khéo nhập Vô Sanh [17] Kim thử Tịnh nghiệp, xảo nhập vô sanh [18] Nay Tịnh nghiệp khéo nhập Vô Sanh nên là đạo dễ hành [19] pháp môn Niệm Phật là đường tắt trong sự tu hành [20] Trì danh lại là đường tắt trong bốn món Niệm Phật, nên được gọi là đường tắt nhất trong các con đường tắt [21] Do vậy, pháp này càng là rõ ràng, xác thực, đơn giản, tóm tắt, kinh này là đệ nhất kinh trong Tịnh tông. Do vì pháp này thẳng gọn nhất trong các pháp thẳng gọn, thuận tiện nhất trong các pháp phương tiện, dứt bặt đối đãi một cách viên dung, không thể nghĩ bàn [22] Các bậc đại đức trong Tịnh Tông Nhật Bản đề cao kinh này còn hơn nước ta [23] Bộ Đại Kinh Thích của sư Hắc Cốc[23] người Nhật, “Đại Kinh Thích” là tác phẩm giải thích kinh Vô Lượng Thọ, [24] đối với giáo pháp vãng sanh, có pháp là căn bản, mà cũng có pháp cành nhánh [25] Hơn nữa, kinh này là chánh vãng sanh giáo [26] những kinh khác là bàng vãng sanh giáo. [27] Lại nữa, kinh này gọi là vãng sanh giáo trọn đủ, [28] Những kinh khác gọi là vãng sanh giáo chưa trọn vẹn [29] theo nghĩa trên đây, Tịnh Độ Tông ví như đỉnh núi Diệu Cao [30] mà kinh này lại như chóp đỉnh của đỉnh núi [31] Kinh này sẽ làm cho hết thảy các hữu tình trong tương lai do nương theo pháp này bèn được độ thoát [32] Do vậy, kinh này lợi lạc chúng sanh lớn nhất; [33] Pháp trì danh thầm hợp đạo mầu, dễ hành nhất Ý kiến bạn đọc