Phật sở hành xứ, quốc ấp khu tụ, mĩ bất mông hóa, thiên hạ hòa thuận, nhật nguyệt thanh minh, phong vũ dĩ thời, tai lệ bất khởi, quốc phong dân an, binh qua vô dụng, sùng đức hưng nhân, vụ tu lễ nhượng, quốc vô đạo tặc, vô hữu oan uổng, cường bất lăng nhược, các đắc kỳ sở.
Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú
(Tập 1)
Người giảng: Lão pháp sư Tịnh Không.
Thời gian: ngày 09 tháng 03 năm 2014
Địa điểm: giảng tại Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà HongKong.
(Đây là bộ khoa chú giảng lần thứ 4 khi ngài ở độ tuổi gần 90)
Các vị pháp sư, các vị đồng tu, xin chào mọi người, xin mời ngồi. Hôm nay là ngày 09 tháng 03 năm 2014, chúng ta bắt đầu học tập “Đại Kinh Khoa Chú” lần thứ 4. Mỗi lần học tập đều giúp cho chính chúng ta hướng nâng lên trên.
Từ trên tướng mà nói không có phân biệt, người thiện người ác đều phải cung kính, cung kính từ những người cung kính ta, người yêu thương ta, đến những người hiểu lầm ta, người phỉ báng ta, người hãm hại ta cũng phải cung kính. Vì sao vậy? Vì họ vốn dĩ là Phật. Vậy tại vì sao họ làm ác? Làm ác vì họ họ hư thôi, không phải bổn tánh họ mà là tập tánh của họ. Bổn tánh của họ là Phật, chúng ta hoàn toàn chỉ xem bổn tánh, không xem tập tánh, vì tập tánh là giả, bổn tánh là thật. Bổn tánh vĩnh hằng bất biến, tập tánh thiện có thể biến thành ác, ác có thể biến thành thiện, thiên biến vạn hóa. Vậy ta không màng các thứ khác, chỉ từ trên Phật tánh mà nói, bạn mới có thể thành được Phật. Bạn dùng tập tánh đi học Phật thì không học được, học cả đời cũng không học được. Thế nên xưng tán liền có tiêu chuẩn, nếu tương ưng với tánh đức thì xưng tán, không tương ưng với tánh đức thì không xưng tán. Trong 53 tham trên “Kinh Hoa Nghiêm” có biểu pháp rõ ràng, Thiện Tài Đồng Tử đi tham học 53 vị thiện tri thức đó đều là biểu pháp, xin nói với các vị, đều là chư Phật Như Lai thị hiện, đến để biểu diễn cho chúng ta xem, đối với thiện tri thức Thiện tài đồng tử trước tiên là lễ kính, thứ hai là xưng tán. Trong 53 vị chỉ có ba vị thiện tri thức là chỉ có lễ kính, mà không có xưng tán, đó là: Vị thứ nhất là Thắng Nhiệt Bà La Môn, có lễ kính nhưng không có xưng tán, họ biểu cái pháp gì? Biểu pháp ngu si, tham sân si. Tham sân si nếu biết dùng có thể thành Phật, còn không biết dùng liền đi ba đường ác. Vị thứ hai là Cam Lồ Hỏa Vương biểu thị sân hận, Thiện Tài Đồng Tử tham phỏng, có lễ kính không có xưng tán. Vị thứ ba là Phạt Tô Mật Đa Nữ biểu thị tham ái, Thiện Tài Đồng Tử đi tham phỏng, có lễ kính không có xưng tán. Vì sao ba vị này Thiện Tài đồng tử không xưng tán? Vì họ biểu hiện ra trái ngược với tánh đức. Trái ngược cũng là pháp, pháp có nhiễm tịnh, có thiện ác, thảy đều là pháp, phải bình đẳng đối đãi nhưng vậy thì tại vì sao trên hình tướng có lễ kính, trên đức hạnh thì không xưng tán? Bởi vì xưng tán sợ người thông thường không hiểu đều học tập. Vậy người không phải thông thường có thể học, đó là người gì có thể học? Pháp thân Bồ Tát học (còn Bồ Tát thông thường không thể học), Pháp thân bồ tát là khi tham sân si hiện tiền nhưng trong tâm không tiêm nhiễm, không có tham sân si, cũng chính là nói ở trong cảnh giới tham sân si này, họ không khởi tâm không động niệm. Hay nói cách khác tham sân si chính là Giới-Định-Huệ, là viên mãn Giới-Định-Huệ, nó hoàn toàn tương đồng với Giới-Định-Huệ, không hề khác biệt, họ là độ pháp thân Bồ Tát, trong 53 tham từ vị thứ nhất là Tỳ Kheo Kiết Tường Vân, thị hiện là Viên giáo sơ trụ Bồ Tát. 40 vị pháp thân đại sĩ, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, 53 tham. Ngoài ra còn có 13 tham, trong đó có 11 vị đại biểu Đẳng Giác, cho nên tổng cộng có 53 vị thứ là đại viên mãn trên “Kinh Hoa Nghiêm”. Pháp tối thượng thừa là không khởi tâm, không động niệm, họ rõ ràng tường tận là trí tuệ, không khởi tâm, không động niệm là tự tánh vốn định, định huệ đều học. Phàm phu không học được, cách quá xa so với cái cảnh giới này, nhị thừa cũng không được, Quyền Giáo Bồ Tát cũng không được, Thiên Thai nói Biệt Giáo (trong Biệt Giáo Thập trụ, Thập hạnh, Thập Hồi Hướng đều không được, Biệt Giáo phải Bồ Tát địa thượng, sơ địa trở trên), còn Viên giáo sơ trụ trở lên. Cho nên Thiện Tài ra đi tham học ngài chứng được sơ trụ, không phải sơ trụ, đó là có tính chọn lựa, không phải mọi thứ đều học, có chọn lựa. Cho nên chứng được sơ trụ “phá một phẩm vô minh, chứng một phần pháp thân”, đối với biểu tham sân si của ba vị Bồ Tát này, Thiện Tài biểu thị ra cái pháp cho chúng ta xem có lễ kính, nhưng không có xưng tán, có cúng dường, các thứ khác mỗi mỗi đều có, chỉ thiếu một xưng tán Như Lai. Cái dụng ý này rất sâu, chúng ta phải hiểu, sau khi hiểu, bạn đối với tất cả pháp mà Phật đã nói ra, đều sẽ sanh khởi tâm cung kính, bạn sẽ không hoài nghi, sẽ không hủy báng, đồng thời biết được chính mình ở trong 53 giai cấp, chúng ta là thuộc về cấp nào. Đây là nói “xưng tán”. Nguyện thứ ba là “Quảng tu cúng dường”: Cúng dường là dùng tâm bình đẳng tu, không có cao thấp, bình đẳng. Vì tất cả chúng sanh đều là Phật, nên chúng ta dùng tâm trạng thế nào cúng dường Phật Bồ Tát thì dùng tâm trạng như vậy để cúng dường tất cả chúng sanh. Đại biểu Phật, Bồ Tát chính là cha mẹ cùng lão sư, các ngài làm các đại biểu. Cho nên “hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng” làm đại biểu. Nếu đem cái cúng dường “hiếu dưỡng phụ mẫu” cùng “phụng sự sư trưởng” đó, cúng dường tất cả chúng sanh (cũng chính là chúng ta nói đối với người, với vật, với việc) thì đây chính là hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, không phải Bồ Tát thông thường đã tu mà pháp thân Bồ Tát đã tu. Vãng sanh đến thế giới Cực Lạc cõi Phàm Thánh Đồng Cư hạ hạ phẩm vãng sanh, đều là tu hạnh Phổ Hiền. A Di Đà Phật 48 nguyện gia trì bạn, bạn tự nhiên liền tường tận, tự nhiên liền làm được. Chân thành cung kính chúng ta đã kém khuyết, thế nhưng hiện tại không chỉ không xưng tán, mà còn phê bình, hủy báng, tự khen mình chê người, trong gia đình anh em bất hòa, trong đoàn thể không tôn trọng lãnh đạo, bằng mặt không bằng lòng. Ở vào xã hội ngày nay những sự việc này quá nhiều. Tại vì sao xã hội loạn? Từ ngay trong mấy điều này chúng ta liền thấy ra được, người hiện tại không có lễ kính, không hề xưng tán, không hề cúng dường, chính ba điều này liền có thể thấy ra duyên do làm đại cầu tai biến, xã hội động loạn, duyên do tại vì sao xã hội loạn như vậy? tại vì sao tai nạn nhiều đến như vậy? Phật pháp có thể hóa giải, người người đều tường tận, đều hiểu rõ ràng giữa người với người phải nên tôn kính, phải nên xưng tán lẫn nhau. Cho nên nhà Phật, tổ sư, đại đức dạy người “nếu muốn Phật pháp hưng, chỉ có tăng khen tăng”. Tán thán lẫn nhau là hiện tượng khí tượng của Phật pháp hưng vượng, còn phê bình lẫn nhau, tự khen mình chê người, đây là hiện tượng của Phật pháp suy, không phải Phật pháp hưng vượng. Phật pháp như vậy, thế pháp cũng không ngoại lệ, trong một gia đình, cha con anh em chị em tán thán lẫn nhau, cái nhà này hưng vượng, nếu như ai cũng không phục ai, phê bình lẫn nhau, hủy báng lẫn nhau, cái nhà này chắc chắn phải bại, cái nhà này tiêu mất. Đây đều là ở ngay trước mắt chúng ta, chỉ cần hơi lưu ý một chút là bạn ngày ngày xem thấy chân tướng sự thật bày ra ngay trước mắt. Có thành, có kính, cúng dường thì phải đem thứ chân thật tốt cúng dường người khác, kế đến mới là chính mình thọ dụng, vậy thì người này chân thật có phước, con người này chân thật thành tựu. Ở ngay chỗ này trên hạnh Phổ Hiền nói cúng dường, thông thường gọi là bố thí, cúng dường là có tâm chân thành đối với bề trên, đối với cha mẹ, đối với sư trưởng, còn bố thí là thông thường. Những người tu hạnh Phổ Hiền họ không dùng bố thí, họ dùng cúng dường. Tài cúng dường được đại tiền tài, pháp cúng dường được đại thông minh trí tuệ, vô úy cúng dường được khỏe mạnh sống lâu, nghiệp nhân quả báo chắc chắn không hư. Vậy xem chúng ta có cách làm thế nào? Có phân biệt có chấp trước, dùng vọng tâm, không dùng chân tâm, vọng tâm tu tích là phước báo nhân gian, chân tâm tu tích là công đức. Phước báo nhân gian thì ở trong sáu cõi luần hồi mà hưởng thụ, bởi vì bạn tâm không thanh tịnh, cho nên bạn không thể siêu việt luân hồi, không thể sanh đến pháp giới bốn thánh. Niệm Phật cũng vậy, muốn chân thật cầu sanh thế giới Cực Lạc, nhất định phải dùng chân tâm, không thể dùng vọng tâm, vọng tâm chỉ có thể kết duyên cùng với A Di Đà Phật, còn ngay đời này không thể vãng sanh được, vậy thì phải chờ duyên phận ở một lần sau, đời sau, kiếp sau, không biết đến lúc nào bạn sẽ lại gặp được giống như cái duyên phận này, gặp được Tịnh Tông, gặp được bổn hội tập của lão cư sĩ Hạ Liên Cư. Vậy bạn phải cố gắng mà tu học, nếu bạn muốn biết có thể vãng sanh hay không, bạn hãy đem đối chiếu với Mười đại nguyện vương xem ta đã làm đến được mấy phần trăm? Ở trong một trăm phần ta đã làm được mấy phần trăm? Nguyện Thứ tư “sám hối nghiệp chướng” Cách sám hối thế nào? Biểu diễn trên vũ đài đau khổ, rơi lệ, cũng cảm động khán chúng ở dưới đài, như vậy có xem là sám hối không? Không nhất định! Đại Sư Chương Gia dạy tôi“sám hối nghiệp chướng phải dùng tâm chân thành tâm cung kính, chắc chắn về sau không tái tạo, đây gọi là chân sám hối”. Đại sư nói, “Phật pháp trọng thực chất không trọng hình thức, thực chất chính là sau không tái tạo”, đây gọi là chân sám hối. Khổng Tử đã nói “bất nhị quá”. Lỗi lầm chỉ phạm có một lần, lần sau chắc chắn sẽ không có lỗi lầm giống như vậy. Ai có thể làm đến được? Khổng Tử tán thán Nhan Hồi làm được. Nhan Hồi con người này lỗi lầm chỉ có một lần, ông biết được lỗi lầm, lần sau sẽ không tái phạm. Nhà Nho không cầu ra khỏi ba cõi mà người ta cũng có thể làm được “sai bất quá nhị”, huống hồ là Phật pháp đại thừa, huống hồ là cầu vãng sanh Thế giới Cực Lạc. Ngày nay sám hối, ngày mai lại phạm, phạm rồi lại sám hối. Vậy thì không được. Tại vì sao có thể có cái hiện tượng này? Vì bạn là dùng vọng tâm sám hối. Truy đến chỗ rốt ráo của “chân vọng” hai chữ này. Chúng ta từ vô thỉ kiếp đến nay, một niệm bất giác mê mất đi tự tánh, biến thành phàm phu sáu cõi, luân hồi ở trong sáu cõi không biết bao nhiêu lần, vô lượng kiếp này, tập khí chủng tử hàm chứa vô lượng kiếp trong A Lại Da, thiện ít, ác nhiều, cho nên cái thiện này không giữ được, chỉ khi gặp được duyên nó liền khởi hiện hành, nhưng lực lượng của ác quá mạnh mẽ, cũng chính là vì cái nguyên nhân này nên mới có hiện tượng ngày nay sám hối, ngày mai lại phạm. A Di Đà Phật kiến tạo thế giới Cực Lạc, chỗ tốt của thế giới Cực Lạc là đem tất cả các duyên ác thảy đều đoạn tuyệt, ở đó không còn nên các nhân ác không thể phát huy tác dụng. Cho nên đến thế giới Cực Lạc, bạn thấy được là tận thiện tận mỹ, bạn sẽ không có ác niệm sanh ra, cũng chính là nói dù trong trong A Lại Da thức chủng tử bất thiện nhiều, nhưng ở thế giới Cực Lạc không có cái duyên này để đem nó dẫn khởi ra. Thế giới Cực Lạc tốt là tốt ở chỗ này. Sám hối phải chân thật làm được, phải thật buông xả. Muốn thật buông xả thì điều kiện trước tiên chính là bạn phải thật nhìn thấu, biết được tam giới, sáu cõi là giả, biết được pháp giới bốn thánh cũng không phải là thật. Tại vì sao vẫn không thể thật buông xả? Vì chưa làm được rõ ràng, nên còn đem cái giả cho là thật, còn cái thật thì không nhận biết được, gặp được rồi cũng không nhận biết. Tịnh Độ là thật, bạn gặp được rồi tại vì sao không niệm Phật? Vì chưa hiểu rõ ràng. Cho nên nhìn thấu, buông xả hai thứ này thứ nào là khó? Năm xưa khi tôi còn trẻ, những vấn đề này đều hỏi qua Đại Sư Chương Gia. Đại sư nói với tôi “nhìn thấu khó”. Nhìn thấu là trí tuệ, đã nhìn thấu thì không thể không buông xả, còn không thể buông xả thì có nghĩa là chưa nhìn thấu, đối với chân tướng sự thật vẫn là ở trong mờ mịt, không thấu hiểu. Thích Ca Mâu Ni Phật 49 năm, không từ lao nhọc giảng kinh nói pháp để giúp đỡ người nhìn thấu. Tại vì sao không dẫn người đả Phật thất, đả thiền thất, tổ chức một pháp hội tu tập. Vì sao vậy? Cái đó quá dễ dàng, bạn chính mình tự biết. Cho nên “tu hành” hai chữ này phải làm cho rõ ràng, tu là tu chánh, hành là hành vi. Hành vi rất nhiều, không ngoài ba loại lớn “Thân-Khẩu-Ý”. Khởi tâm động niệm là hành vi của ý nghiệp, ngôn ngữ là hành vi của khẩu nghiệp, động tác là hành vi của thân nghiệp. Tiêu chuẩn là tánh đức, tương ưng với tánh đức là thiện, trái ngược với tánh đức là ác, phải đem hành vi ác tu sửa trở thành hành vi chánh đáng, đó gọi là tu hành. Tiêu chuẩn của Phật pháp chính là “Kinh-Luật-Luận”. Kinh, Luận là tu sửa hành vi của ý nghiệp; giới Luật là tu sửa hành vi của thân, khẩu. Thân thể động tác, ngôn ngữ phải phù hợp, phải có phân lượng, phải có tiết chế, đó là giới luật. Kinh, Luận là nói định, là nói huệ, hoàn toàn tu sửa hành vi của khởi tâm động niệm, nó chỉ có một tiêu chuẩn. Chúng ta ngày nay biết được kinh luận quá ít, thì nhìn không thấu, buông không xuống. Biết được rất ít có thể thành tựu hay không? Có thể! Người thành tựu rất nhiều. Đó là gì vậy? Trong Kinh Di Đà đã nói “không thể thiếu thiện căn phước đức nhân duyên mà được sanh nước kia”. Họ tuy là biết được kinh luận ít, không nhiều, nhưng họ có thiện căn, họ có phước đức, họ có duyên phận, lão sư nói với họ không nhiều, nhưng họ hoàn toàn có thể làm được. Giống như Lão Hòa Thượng Hải Hiền, loại người này không nhiều, lịch đại đều có, người xuất gia có, tại gia cũng có, họ thiện căn phước đức nhân duyên sâu dầy toàn là nhờ vào chính mình thành thật, nghe lời, thật làm. Họ chỉ cần có sáu chữ này, thậm chí đến không biết chữ không có đi học, căn bản không có học qua kinh giáo. Lục tổ Huệ Năng cũng chính là vậy, ngài không biết chữ, không học qua kinh giáo, ở Hoàng Mai tham học tám tháng, chính là giã gạo bửa củi. Giảng đường Hoàng Mai chưa từng bước vào, chưa từng vào thiền đường, trong Phật môn thời khóa sớm tối cũng chưa từng vào. Tám tháng sau thì Ngũ tổ truyền pháp cho ngài, ngài tu cái gì? Ở ngay trong tám tháng, ngài sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần, tu cái gì? Tu không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, viên mãn tròn đầy tương ưng với tam quy, tương ưng với năm giới, mười thiện, tương ưng với lục hòa, tương ưng với sáu Ba La Mật. Chúng ta lại xem qua Mười nguyện Phổ Hiền để làm tiêu chuẩn, thì họ từng điều đều tương ưng. Vì sao vậy? Vì đây là tánh đức. Ngài tám tháng tu, liền viên mãn. Lão hòa thượng biết cho nên phát đưa ra tin tức truyền y bát, để mọi người viết một bài kệ cho Ngũ tổ xem. Huệ Năng, ngài viết bài kệ chân thật thấy tánh rồi thì Ngũ tổ liền truyền y bát cho ngài làm tổ thứ sáu của Thiền tông. Đạo tràng của Ngũ tổ là đạo tràng lớn, rất người nhiều, hơn một ngàn người, không có người nào nghĩ đến rằng y bát sẽ truyền cho Huệ Năng. Ngũ Tổ âm thầm mà truyền cho Huệ Năng, không có cử hành nghi thức, cũng không có mời người xem lễ, truyền cho ngài rồi lập tức bảo ngài ra đi. Sau đó lão hòa thượng ba ngày ở trong phòng, không hề mở cửa, mọi người cho rằng lão hòa thượng bị bệnh. Đến ngày thứ ba Ngũ tổ mở cửa ra, độ chừng Huệ Năng đã đi được cũng rất xa rồi, không dễ gì truy đuổi kịp, mới nói mọi người “y bát đã đi rồi”. Mọi người nghe lời nói này, nghĩ đến khẳng định là Huệ Năng, liền phân ra để truy tìm, để đem y bát mang về. Người có mệnh, không phải là của bạn thì bạn không thể lấy được. Chân thật chỉ có một người truy đuổi kịp là Huệ Minh. Đại Sư Huệ Năng mau chóng đem y bát đặt ở trên đường, đặt ở trên một hòn đá còn chính mình trốn đi, vì họ đến là để đoạt y bát, người không cần đến, không đến nỗi giết người còn y bát đó đã đến tay họ rồi. Nhưng họ không thể lay động được y bát đặt ở đó. Huệ Minh khi còn tại gia là Tứ phẩm tướng quân, tứ phẩm tướng quân cũng không thể lay động được y bát. Ông ấy lập tức liền giác ngộ, có thần hộ pháp giữ lấy, cho nên ông lập tức hồi tâm chuyển ý, liền sám hối, chân thật sám hối. Ông liền gọi Đại Sư Huệ Năng, ông gọi“Lô Hành Giả, tôi là vì cầu pháp mà đến, tôi không phải vì y bát, xin ngài hãy bước ra”. Đại Sư Huệ Năng bước ra, ngồi trên hòn đá, Huệ Minh liền đến hỏi ngài, (vì Huệ Minh ở Hoàng Mai thời gian rất dài nhưng chưa có khai ngộ), khi ông thỉnh pháp với Huệ Năng, Huệ Năng nói với ông, dạy ông không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính là vạn duyên buông xả, một lòng chuyên chú. Ông hỏi ngài một câu “làm sao là minh thượng tòa bổn lai diện mục?” Câu nói này là hồi quang phản chiếu. Ông chân thật khai ngộ rồi, khấu đầu cảm tạ lạy Đại Sư Huệ Năng bái làm sư phụ. Vốn dĩ là đời chữ Huệ, nên đem tên đổi lại là Huệ Minh. Vậy chúng ta biết được, Đại Sư Huệ Năng cả đời, ở dưới hội của ngài khai ngộ hơn bốn mươi người, Huệ Minh là người thứ nhất. Sau đó Huệ Minh hỏi ngài còn có gì bí mật hay không? Đại Sư Huệ Năng nói được rất hay “mật ở chính nơi ông, ông muốn hỏi bí mật là ở chính nơi ông, ngoài tâm không có bí mật, cái gọi là mật chính là tự tánh, chính là pháp tánh, chính là chân tâm. Chân tâm có thể sanh vạn pháp, vạn pháp là chân tâm sanh ra”. Huệ Minh vào lúc này chân thật sám hối, nghiệp chướng buông xả, cho nên ông có thể khai ngộ, chân thành đến cùng tột liền khởi tác dụng. Nguyện thứ năm là “tùy hỉ công đức” Chúng ta phải học, mặc dù ở vào cái đại thời đại này, không thể học tùy hỉ, ngày tháng làm sao qua? Thế nhưng nếu chúng ta có thể tùy hỉ thì có thể tích một chút phước đức, không phải công đức. Cái gì là phước đức? Vì chúng ta có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Bồ Tát tùy hỉ tại vì sao thành tựu công đức? Pháp thân Bồ Tát, các ngài không có khởi tâm động niệm, không có phân biệt chấp trước, cho nên tùy hỉ thành tựu toàn là công đức. Cái tùy hỉ này từ đâu mà đến? Hằng thuận chúng sanh. Họ là tùy hỉ mười pháp giới, bên trên có thể tùy hỉ tất cả chư Phật Như Lai biểu hiện ra pháp môn khác nhau, bên dưới có thể tùy hỉ mười pháp giới chúng sanh. Thành tựu công đức gì? Thành tựu sáu căn ở trong cảnh giới sáu trần: Thấy được rõ ràng, nghe được tường tận, mọi thứ rõ ràng tường tận là trí tuệ, trí tuệ Bát Nhã vốn đầy đủ trong tự tánh hiện tiền rồi, tâm như như bất động, như như bất động là chân tâm. Các vị phải biết khởi tâm động niệm là vọng tâm, phân biệt, chấp trước là vọng trong vọng, vọng tâm nghiêm trọng, cái vọng tâm này tạo nghiệp chính là sáu cõi luân hồi. Tùy hỉ dùng chân tâm không dùng vọng tâm, chính là công đức, dùng vọng tâm không dùng chân tâm chính là phước đức. Thiện là phước đức, ác là ba đường, cho nên ba đường ác cùng ba đường thiện, vì vậy mà như nhau không có ý nghĩa. Ba đường ác là tiêu khổ nghiệp, tiêu ác nghiệp, còn ba đường thiện là tiêu nghiệp thiện, đều là tiêu nghiệp, cho nên nó là bình đẳng, hay nói cách khác thiện ác nghiệp đều không thể tạo, tạo ra chính là tạo nghiệp luân hồi, luân hồi là thiện ác đều bao gồm. Nhiễm tịnh thiện ác, chúng ta ngày ngày làm những thứ này, tại vì sao bạn không thể thoát ly sáu cõi vì bạn ngày ngày đang tạo nghiệp của sáu cõi, hay nói cách khác bạn ngày ngày đang thêm lớn nghiệp sáu cõi, thì bạn làm sao có thể xuất ly sáu cõi. Đoạn ác không dính cái tướng đoạn ác, tu thiện không dính cái tướng tu thiện thì đúng. Đoạn ác, tu thiện nhất định phải làm, tùy hỉ, không dính tướng chính là công đức, không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước là người đại tu hành, người chân tu hành, đó là pháp thân Bồ Tát. Tùy hỉ công đức là nói ngay trong cuộc sống thường ngày, mỗi giờ mỗi phút niệm niệm đều là nâng cao cảnh giới của chính mình, pháp hỉ sung mãn, chân thật là thường sanh tâm hoan hỉ. Nguyện thứ sáu này đại công đức "thỉnh chuyển pháp luân" Khi Phật Đà tại thế, đại đức, trưởng giả, cư sĩ đến biểu pháp. Biểu cái pháp gì? Thỉnh Phật giảng kinh. Người tu phước, tu cái phước gì lớn nhất? Không gì lớn hơn thỉnh Phật giảng kinh. Vì sao vậy? Thỉnh Phật giảng kinh bao nhiêu người được lợi ích, cái lợi ích này là chân thật, không phải phước báo thế gian, vì họ được khai trí tuệ rồi, họ được tam muội, họ chứng quả rồi. Kinh sám, pháp sự có được xem là thỉnh chuyển pháp luân hay không? Có, cũng xem là thỉnh chuyển pháp luân, cũng là việc tốt, thế nhưng đây là lấy chúng sanh u minh giới làm chủ, nó không phải người. Phật đà ở đời là vì người, hy vọng người nghe pháp rồi có thể giác ngộ, nghe giới luật rồi có thể sám hối, hiện tiền được lợi ích. Còn u minh giới có được lợi ích hay không? Được lợi ích. Chúng ta biết được, thiên long bát bộ quỷ thần, khi Phật vừa giảng kinh thảy đều đi đến, số lượng những chúng sanh này so với số người hiện tiền chúng ta không biết phải nhiều hơn gấp bao nhiêu lần, chúng sanh chín pháp giới đều đến nghe pháp. Cho nên phải cung kính người thỉnh pháp, cung kính có đại phước báo. Bạn không nghĩ đến người thỉnh pháp đã tu đại phước huệ, việc này rất nhiều người không biết. Nguyện thứ bảy “thỉnh Phật trụ thế”: Khi bạn thỉnh Phật giảng kinh, bộ kinh giảng xong ngài liền đi. Ở ngay trong hội này, người được độ có không? Có, nhưng không nhiều, người nghe một lần mà được độ thì là số ít, lại càng ít. Vậy phải như thế nào vậy? Nếu như Phật trụ ở nơi này, suốt năm thường xuyên giảng kinh, thường niên không đoạn giảng kinh, đây là nói huân tu công đức, thường hay huân tu. Ngay người trung thượng căn đều bị ngài huân thành người thượng thượng căn, cái công đức này thì càng lớn. Nhưng nhất định phải như pháp, không như pháp thì không được, phải hiểu được như pháp, phải tương ưng với pháp tánh, cũng chính là người thông thường chúng ta nói lễ tiết qui củ, ở trong Phật pháp nói chính là giới luật. Giới là gốc của “Vô Thượng Bồ Đề”. Trong loại đại pháp hội này, Giới-Định-Huệ tam học đều biểu diễn ở ngay trong đó. Thế Tôn nói pháp, đệ tử thường tùy là 1255 người, Phật nói pháp, còn họ biểu pháp. Họ phải từ ngay trong đời sống, làm ra tấm gương để cho người khác xem, bởi vì họ là học trò của Phật, Phật đích thân dạy bảo họ, nếu như họ không làm được, thì người khác làm sao có thể tin tưởng. Hiện tại khó là khó chính ngay ở chỗ này, người chân thật dạy không có. Vì sao vậy? Không có học trò. Người chân thật muốn học cũng rất khó, không tìm được lão sư. Cho dù có lão sư tốt, nhưng phiền não, nghiệp chướng, tập khí quá nặng, họ không làm được, làm không được, tín tâm liền mất đi rồi. Chúng ta chính mình tín tâm mất tiêu rồi, thì người bên ngoài theo học với chúng ta, làm sao có thể xây dựng lòng tin? Cho nên ngày nay chúng ta gặp phải chướng nạn. “Chướng” là chướng ngại, “nạn” là khốn khó. Có thể nghĩ mà biết, thật không dễ dàng, không hề biết chân thật biểu pháp chính là làm, phải làm được. Đệ tử của Phật làm được thì cái công đức giáo học đó của họ thì ở pháp hội cùng Phật là bình đẳng. Chúng ta từ chỗ này có thể thể hội được. Phật nói, chúng ta làm tấm gương, Phật nói là “khai”, ngôn giáo, còn các đệ tử đều làm được là tấm gương để bạn có thể xem thấy, đó chính là “thị”. Cho nên đồng thời bạn có thể thấy được ngôn giáo, thân hành, bạn mới tin tưởng, thính chúng tin tưởng, nghe Phật nói kinh rõ ràng rồi, lại xem thấy nhiều tấm gương tốt như vậy. Cho nên giáo hóa không phải một người dạy, cũng giống như biểu diễn ở trên vũ đài vậy, ở trên vũ đài bất cứ ở góc độ nào đều là công như nhau, công đức, mỗi mỗi đều có công, ngay những người phụ việc đều có công, vì không có những người này vở kịch liền có kém khuyết không viên mãn, mỗi một người đều có công. Lại mở rộng ra một chút, dưới đài những người phục vụ đó, những người hiệp trợ đó, chính là hậu đài, thảy đều có công đức, sự biểu diễn này bạn mới diễn được thành công, nếu còn có một bộ phận có kém khuyết thì lộ ra không viên mãn. Thế nên thỉnh Phật trụ thế là quan trọng, nhưng làm sao để thỉnh được Phật? Phải thật làm thật học. Phật không có tình riêng, không có thể diện. “Phật Thị môn trung, bất xả nhất nhân”, có một người chân thật học thì thỉnh Phật trụ thế. Vì sao vậy? Ta thật muốn học. Còn một người cũng không có, một người chân thật muốn học đều không có thì Phật liền đi. Vì sao thiện tri thức rời khỏi? Vì người thật muốn học không có, còn người thật học tốt nghiệp rồi, rời khỏi rồi, duyên không đầy đủ, cái lớp này lớp tiếp theo khó lập thành. Lão sư Lý cho đến tận cuối đời chỉ làm được một lần lớp nghiên cứu nội học, bốn năm tốt nghiệp, lớp này kết thúc, cho dù lão nhân vẫn ở đời, ngài vẫn chưa đi, nhưng tại vì sao không thể thành lập khóa thứ hai? Không có người học. Ở đời sống thường ngày người ta tốt nghiệp đại học, học thêm bốn năm, cần phấn đấu một chút có thể lấy được học vị tiến sĩ, mức độ thấp nhất họ cũng có thể lấy được học vị thạc sĩ. Còn cái lớp này của lão sư Lý không có học vị, nội dung học tập là Phật pháp đại thừa, nên trong xã hội không thừa nhận, hay nói cách khác ông không có học trò, cho nên cái lớp này liền kết thúc. Có hiệu quả, chúng ta xem thấy pháp sư Quả Thanh, Quả Thanh chính là tốt nghiệp trong cái lớp này, rất là hy hữu. Ông ấy chân thật có thể giữ lấy tổ tông truyền lại “một môn thâm nhập, trường kỳ huân tu”, cái điểm này ông ấy đã làm được rồi. Chúng tôi xem thấy rồi vô cùng cung kính ông ấy, vô cùng hoan hỉ, chúng ta tán dương, tán thán ông, tán thán giới luật, khích lệ đồng tu học tập ông ấy, bắt chước ông ấy. Giới luật đích thực là nền tảng của học Phật, không có nền tảng tốt thì làm sao có thể thành tựu? Phổ Hiền Mười nguyện, chúng ta giảng bảy nguyện rồi, bảy nguyện này là nguyện Phổ Hiền, phía sau ba nguyện là hồi hướng, thứ tám là “thường tùy Phật học” là hồi hướng bồ đề, thứ chín “hằng thuận chúng sanh” là hồi hướng chúng sanh, sau cùng “phổ giai hồi hướng” là hồi hướng pháp giới, ba nguyện phía sau đều là hồi hướng. Ba cái hồi hướng này, hôm nay thời gian hết rồi, sáng ngày mai chúng ta cùng học tập ba loại hồi hướng. [1]Hiện tại nay là đời Ngũ Trược [2]Là lúc tạo ác; cho nên khó tu một thứ thánh đạo vì sẽ gặp nhiều chướng nạn (chẳng phải là chỉ có một nạn) [3] Ngũ luân là năm mối quan hệ chính yếu: Vua tôi, cha con, anh em, vợ chồng, bè bạn. Ngũ thường là nhân, lễ, nghĩa, trí tín. Tứ duy là lễ, nghĩa, liêm, sỉ. Bát đức là trung, hiếu, nhân, ái, tín, nghĩa, hòa, bình. [4] Chánh thuyết xuất thế riêng thuộc trong kinh này [5] Cả một đời thuyết pháp quy về kinh này [6] Như các dòng nước xuôi về bể cả [7] Do vậy, nói: Trăm vạn A-tăng-kỳ nhân duyên phát khởi kinh Hoa Nghiêm, [8] một đại sự nhân duyên để thành kinh Pháp Hoa [9] Cũng chỉ là nguồn gốc của pháp này [10] Cả hai kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa chỉ là pháp dẫn đường cho kinh này [11] Kinh này đúng là chỗ chỉ quy của cả Ðại Tạng giáo [12] Cả hai kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa chỉ là pháp dẫn đường cho kinh này [13] Là chỗ chỉ quy của toàn bộ giáo pháp trong Đại Tạng Kinh, cuối kinh Hoa Nghiêm, mười đại nguyện vương của Phổ Hiền đại sĩ dẫn về Cực Lạc là một chứng cớ rõ ràng Ý kiến bạn đọc