ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO
(Tăng Quảng Chánh Biên)
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
(trọn bộ - giảo duyệt hoàn tất ngày 26 tháng 11 năm 2006)
QUYỂN THỨ NHẤT
Ý kiến bạn đọc
Đạo tràng Viên Thông trọn khắp ba đời chẳng tăng chẳng giảm. Phong thái, khuôn phép Phổ Môn vạn pháp không thiếu, không thừa. Hằng cổ hằng kim, như như bất biến, hữu tình vô tình pháp pháp viên dung. Tuy ngàn đức Phật cùng xuất thế, trọn chẳng có gì hưng. Dẫu tam tai cùng khởi, há có gì bại! Danh sơn Bổ Đát[20] của Quán Âm đại sĩ chính là cảnh tượng Chân Như Thật Tế rốt ráo. Về mặt ứng hóa thì pháp tùy duyên khởi, đạo do người hoằng. Hưng - phế, thông - tắc đều có nguyên do. Xét từ khi thủy tổ Huệ Ngạc khai sơn vào đời Lương, Chân Hiết thiền sư khai tông vào đời Tống, cho đến khi được sùng tín vào đời Nguyên, được nổi tiếng vào đời Thanh, đều đạo cao ngất đời, đức cảm chín loại. Chấn hưng tông phong, rộng lưu truyền sự giáo hóa huyền diệu, khiến cho khắp trong ngoài bốn biển đều được phủ mây Từ, chúng sanh sáu đường đều thấm mưa pháp. Cao đẹp thay! Tốt lành thay! Còn gì hưng thạnh hơn!
Kể từ khi được nổi tiếng, chùa hai lần được sắc tu[21]. Đời đời tuân theo quy củ đã định, gia phong chẳng suy. Đến đầu đời Hàm Phong, giặc tóc dài dấy loạn, nhân dân nheo nhóc, hương lửa nhiều năm đoạn tuyệt, chi phí do vậy thiếu hụt, pháp khí, đồ đạc đều chẳng đủ dùng. Phàm Trụ Trì đến nhậm chức, những gì cho chính vị ấy gầy dựng thì đến khi thôi làm Trụ Trì, bèn cho khiêng về chùa mình. Nếu có để lại, đều tính tiền bàn giao. Thậm chí vật hư nát quá sức, chẳng đáng giá đồng nào, cứ nhất loạt chiếu theo giá trị như vật mới mà bàn giao, tính tiền thành một ngàn mấy trăm đồng, giống như sang tiệm ngoài chợ, hàng hóa đồ đạc đều bán cho chủ mới. Cái gọi là “thường trụ” chỉ là nhà trống, kinh tượng mà thôi. Tệ nạn ấy do chiến tranh cũng không lấy gì làm lạ. Về sau, thế đạo thái bình, đèn nhang nhộn nhịp, nhưng vẫn giữ nguyên thói cũ, chẳng hề sửa đổi mảy may! Những ai từng trông coi việc chùa, ắt biết rõ nguyên do
Nay nhằm lúc Văn Liên lão hòa thượng thôi làm Trụ Trì, tôi được các vị lão hòa thượng và pháp quyến các phòng giao cho trách nhiệm nặng nề ấy. Tự thẹn tài kém đức mỏng, chẳng dám đảm nhận, nhưng đôi lần ba lượt bị ép buộc, chẳng cho thoái thác. Trộm nghĩ Phổ Tế là danh sơn đạo tràng của Bồ Tát trong thiên hạ. Từ đời Lương đến thời Dân Quốc đã qua mười thế kỷ, tròn một ngàn năm. Nay đã lạm giữ chức này, dám đâu không gắng sức trù tính để hưng khởi điều lợi, trừ khử mối tệ, bồi đắp nguyên khí cho thường trụ, kính vì các vị, vì pháp, vì người, một phen dốc chí. Nhân đó, nói:
- Thường trụ về bản chất vốn thuộc thập phương, chứ không phải tài sản riêng của một mình vị Trụ Trì. Đúng lý, tất cả tài chánh phải thuộc về thường trụ. Phàm tiền tài, thóc gạo, vật dụng trang hoàng, bất luận là do thường trụ đã có từ trước hay vật do chính vị Trụ Trì sắm sửa cũng chẳng được đem đi hay bán lại cho chùa sau khi hết làm Trụ Trì. Chi phí làm lễ nhậm chức Trụ Trì do chính vị Trụ Trì ấy bỏ ra, chẳng được hao phí của thường trụ. Như thế sẽ thấy của thường trụ ngày càng sung túc, pháp đạo cũng do đó thạnh vượng.
Văn Liên lão nhân nghe vậy hớn hở, hoan hỷ, phát Bồ Đề tâm, xin đem khoản tiền bàn giao một ngàn mấy trăm đồng tiền ấy một nét bút xóa sạch. Những đồ vật hư nát chẳng đáng nhắc tới bèn cùng đại chúng vứt đi. Vật nào dùng được bèn chiếu theo giá trị mới - cũ mà ghi vào Vạn Niên Bạ để bàn giao. Những thứ được sắm sửa về sau, nhất loạt ghi vào sổ. Quy củ tài chánh của Trụ Trì và thường trụ đều phỏng theo tùng lâm các nơi, chỉ có chức Trụ Trì phải tuyển từ con cháu các phòng trong chùa[22]. Ấy gọi là “tử tôn thập phương”. Mong rằng từ đây về sau, phàm ai làm Trụ Trì và những ai đảm trách chức vụ, ai nấy đều phát Bồ Đề tâm, vun bồi cho thường trụ, khiến cho từ ân của Đại Sĩ theo chiều dọc thì suốt cả ba đời, theo chiều ngang bèn trọn khắp mười phương, ai nấy trong đời này phước lẫn huệ đều thạnh, được trời - người kính ngưỡng, lâm chung thì thân lẫn tâm đều tốt lành, Phật - thánh đến rước. Như thế thì một niệm ngu thành của Bất Huệ cũng như một phen khổ tâm của cụ Văn chẳng thành hư uổng, ai nấy đều được lợi ích thật sự. Do vậy, bèn lược thuật nguyên ủy ghi vào đầu sổ, để cho những người thông suốt trong đời mai sau đều biết được duyên khởi vậy!