ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO
(Tăng Quảng Chánh Biên)
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
(trọn bộ - giảo duyệt hoàn tất ngày 26 tháng 11 năm 2006)
QUYỂN THỨ NHẤT
Đính kèm thư của vị cư sĩ ấy: Bỉ nhân là tín đồ Tịnh Độ, đã quyết định phụng hành, nhưng với hai chữ “nguyện, hạnh” còn phải xin chỉ dạy: Nguyện và hạnh là hai thứ vận dụng riêng biệt hay là phải cùng vận dụng? 1) Nếu bảo là [vận dụng] hai thứ [riêng biệt] thì lúc niệm Phật trước hết phải phát nguyện cầu sanh như bài Thập Niệm Cầu Sanh Văn của ngài Từ Vân rồi mới niệm. Chỉ lúc niệm Phật mới giữ ý chỉ “ngoài tâm không Phật, ngoài Phật không tâm”, tâm và miệng như một, cứ như thế mà niệm mãi. Trong mỗi niệm chỉ giữ ý niệm ấy, cũng chẳng có ý nguyện cầu sanh. Niệm theo cách như thế thì đều vãng sanh thượng phẩm. Đây là chiếu theo lời của Triệt Ngộ thiền sư. 2) Nếu nói phải vận dụng cả Nguyện lẫn Hạnh cùng một lúc thì lúc niệm Phật mỗi tiếng như trẻ nhỏ té xuống nước gấp gáp gọi mẹ đến cứu. Đây là thuyết của ngài Ngọc Phong thiền sư ở Hàng Châu. Lại như Kiên Mật[35]đại sư nói: “Sáu chữ hồng danh trong mỗi một niệm có đủ cả ưa thích và nhàm chán”, cũng giống với thuyết của ngài Ngọc Phong[36]. Trong hai thuyết trên, theo thuyết thứ nhất thì trong lúc niệm Phật tợ hồ thiếu ý khẩn thiết, Ngẫu Ích đại sư từng nói: “Cầu sanh Tịnh Độ hoàn toàn dựa vào tín nguyện. Nếu không có tín nguyện dẫu niệm đến mức gió thổi chẳng lọt, mưa chẳng ướt được như tường bạc vách sắt, cũng không thể được vãng sanh”. Như vậy dù có niệm được nhất tâmbất loạn, sợ rằng vẫn chưa được mười phần ổn thỏa, thích đáng! Theo như thuyết thứ hai, lúc niệm Phật có đủ cả hạnh lẫn nguyện, nhưng trong mỗi niệm, trong tâm thường còn chứa một nguyện, e rằng đối với nhất tâm bất loạn chẳng thuần. Gần đây vị sư… ở Hàng Châu cũng lo ngại về chuyện không thể kiêm nguyện và không thể không kiêm nguyện [như tôi]. Ngài Ngọc Phong có thí dụ dụng binh, kẻ mạt học độn căn chưa hiểu rõ rốt ráo, mong bậc cao hiền ắt có lời bàn luận xác đáng để làm bến bờ cho hàng hậu học. Pháp môn Tịnh Độ lấy ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm tông, như ba chân của cái đỉnh, khuyết một chẳng thể được. Các hạ đã dốc chí tu Tịnh nghiệp thì một chữ Tín ắt đã đảm đương trọn vẹn, rốt ráo không nghi. Đối với hai pháp Nguyện và Hạnh vẫn còn có chấp trước hai thứ đối đãi như thế, chẳng thể dung hội quán thông đến nỗi đối với pháp viên dung vô ngại, sanh khởi nhiều chướng ngại, để rồi ánh trăng viên mãn muôn hào quang chiếu khắp của ba vị đại sư Triệt Ngộ, Kiên Mật, Ngẫu Ích chỉ vì một sợi tơ nơi mắt mình bèn thành phân cách. Tiếc thay! Nay tôi bảo người thật sự niệm Phật thì lúc niệm Phật ba thứ Tín - Nguyện - Hạnh đều toàn thể đầy đủ như con nhớ mẹ, không hề có chuyện gián đoạn và cũng không có ý niệm hồ nghi chẳng tin và chẳng mong thấy mẹ! Ông nói đến chuyện “cùng vận dụng” hay “vận dụng riêng rẽ”, cho rằng “hễ có Nguyện thì nhất tâm chẳng thuần”. Chúng vốn là một, sao lại trên đầu chồng thêm đầu rồi lo ngại “chẳng thể kiêm” và “chẳng thể không kiêm”? Xem những gì các hạ đã nói và lời bàn luận của vị Tăng nọ quả thật là chưa thể thật sự theo đuổi [Tịnh nghiệp], ấy chính là trước lúc chưa cất bước đã lo bàn cảnh tượng khi về đến nhà. Vì thế, đối với pháp ngôn đối trị phân biệt của cổ nhân nẩy sanh đủ mọi phân biệt. Thử hỏi: “Ngoài tâm không Phật, ngoài Phật không tâm”, nếu chẳng khẩn thiết có làm được như thế hay chăng? Không tín nguyện có làm được như vậy hay chăng? Lời của hai vị Triệt Ngộ và Kiên Mật tuy khác nhau, nhưng ý nghĩa thật sự hỗ trợ, hoàn thành lẫn nhau. Ông nghĩ có chuyện “cùng vận dụng” và “vận dụng riêng rẽ” thì có thể nói là thiếu con mắt chọn lựa pháp. Còn lời ngài Ngẫu Ích nói chính là pháp dược cho hạng dựa dẫm Tông Môn, niệm tự tánh Di Đà, sanh duy tâm Tịnh Độ, và những kẻ chẳng y theo tông chỉ Tịnh Độ để tu, chỉ lấy chuyện “niệm đến nhất tâm bất loạn” làm cùng cực rốt ráo. Sao lại dẫn chuyện ngoài cửa Tịnh tông để so sánh với chuyện chân tu tín nguyện đầy đủ đến nỗi đường lối bị lộn xộn! Đây là nói chung trên mặt Lý. Nếu luận riêng theo Sự thì sớm tối lúc niệm Phật xong (pháp Thập Niệm buổi sáng thì cũng niệm Phật trước, phát nguyện sau) có thể dùng bài Tiểu Tịnh Độ Văn. Nếu thân tâm rảnh rang nên dùng bài Tân Định Tịnh Độ Văn của Liên Trì đại sư [để hồi hướng]. Bài này ngôn từ lẫn nghĩa lý đều châu đáo, đứng đầu cổ kim. Nên biết: Phát nguyện đọc văn thì phải nương theo văn để phát nguyện, không phải cứ đọc văn hồi hướng một lượt là đã phát nguyện đâu nhé! Ngoại trừ sáng tối phát nguyện ra, trong hết thảy thời chỉ chí thành khẩn thiết niệm Phật là được rồi! Nam Mô A Di Đà Phật! Ý kiến bạn đọc
ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO
(Tăng Quảng Chánh Biên)
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
(trọn bộ - giảo duyệt hoàn tất ngày 26 tháng 11 năm 2006)
QUYỂN THỨ NHẤT- Phần 3